Tiếng gọi Tây Nguyên

13:05:00 28/04/2014

Tieng goi Tay Nguyen

Cuốn tiểu thuyết sử thi của Lương Sĩ Cầm “Đèn kéo quân” miêu tả cuộc chiến đấu của quân và dân Liên khu V trong trận đánh cuối cùng đông - xuân 1953 - 1954 phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ. Tôi là một cán bộ Công an sống và làm việc vào thời kỳ ấy, đọc cuốn sách, có cảm nhận rõ rệt, được sống lại với không khí khẩn trương, căng thẳng chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng tỉnh Kom Tum trên Tây Nguyên.

Tôi cứ suy nghĩ về cái đầu đề của cuốn sách: “Đèn kéo quân”. Có lẽ tác giả muốn diễn đạt hình thái diễn biến của cuộc tây tiến ở Liên khu V thời ấy. Cuốn sách giúp tôi nhớ lại suốt chín năm kháng chiến chống Pháp ở miền Nam Trung Bộ, chưa có giai đoạn nào các sự kiện lịch sử, các biến cố, các trận đánh lại dồn dập, đan xen nhau, lại gây xáo trộn lòng người như thời cuộc đông xuân 1953 - 1954.

Một mặt, tướng Na-va, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tập trung 40 tiểu đoàn, âm mưu xóa sổ vùng tự do Liên khu V gồm 4 tỉnh Nam, Nghĩa, Bình, Phú với hai triệu rưỡi dân. Ông ta tính toán rằng sau khi rảnh tay ở miền Nam, sẽ tập trung quân ra chiến trường chính ở Bắc Bộ, hòng đè bẹp chủ lực ta. Chiến dịch ấy có tên là Át-lăng.

Mặt khác, bộ đội chủ lực của ta rời đồng bằng kéo lên Tây Nguyên đánh vào nơi sơ hở của địch để phân tán chủ lực Pháp, không cho chúng tăng viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Giặc sắp đánh đến nơi mà bộ đội kéo đi, rời khỏi vùng tự do khiến cho tâm trạng nhân dân có rất nhiều người thắc mắc, không những dân thường mà có cả nhiều cán bộ địa phương. Đồng bào có câu nói: “Bỏ miếng thịt, đi gặm xương; bỏ gạo cơm lên Tây Nguyên ăn sắn”. Thế rồi, sau năm tháng chiến đấu, bộ đội ta thắng lớn trên Tây Nguyên, thừa thắng quay trở lại đồng bằng đập tan chiến dịch Át-lăng của quân Pháp, giải phóng hầu hết vùng bị tạm chiếm ở tỉnh Phú Yên. Phải chăng, cái đề “Đèn kéo quân” là hình tượng của một mùa chiến dịch thắng lợi chưa từng có của quân và dân Liên khu V?

Đọc “Đèn kéo quân”, tôi thấy bên cạnh việc diễn đạt chiến sự (10 trên 28 chương sách) tác giả để dành nhiều chương để diễn tả chiến tranh nhân dân và sự phối hợp giữa công tác an ninh và công tác quân sự.

Mở đầu cuốn tiểu thuyết, tác giả miêu tả rừng dừa Tam Quan, nơi che giấu hoạt động của ngành Đường sắt vận chuyển quân nhu, quân khí cho bộ đội. Dưới rừng dừa quê tôi, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, đồng bào sản xuất dầu dừa thắp đèn, xà phòng cung cấp cho mọi miền gần xa. Dây thừng to để kéo pháo được chế tác ở Tam Quan. Cây dừa được đốn cắt để lát hầm che đầu máy xe lửa. Lá dừa dùng để ngụy trang các cầu ngầm, các bến bãi, che mắt máy bay địch. Đồng bào Quảng Ngãi sản xuất mắm kem, may áo mưa bằng vải thấm dầu rái để tiếp tế cho bộ đội. Dân công Phú Yên huy động hàng trăm ngựa thồ chở hàng lên núi lập kho quân nhu, quân lương. Trong bộn bề công việc chuẩn bị chiến đấu, các nhân vật ở hậu phương đều biểu hiện lòng hăng hái, đem sức người sức của phục vụ tiền tuyến.

Những mối tình nảy nở trong chiến tranh đã làm cho trang viết mang màu sắc lãng mạn. Trong cuốn tiểu thuyết “Đèn kéo quân”, ngoại trừ cặp vợ chồng của Tư lệnh Nguyễn Chánh, chẳng có cuộc tình duyên nào giữa anh bộ đội và cô gái hậu phương được suôn sẻ từ đầu chí cuối. Chỉ nhờ có dựa vào lòng yêu nước, ý chí xả thân vì độc lập tự do mà họ vượt qua được thác ghềnh của cuộc sống tình cảm.

Về chủ đề gắn công tác an ninh với công tác quân sự, tôi cho đây là một sáng tạo của tác giả. Vốn là một cán bộ Công an thời xa xưa ấy, tôi được biết đồng thời với chiến dịch Át-lăng, Phòng Nhì của Pháp tung ra một vụ án gián điệp giả đánh vào ngành xe lửa (hỏa xa) để phá công việc chuẩn bị chiến dịch của ta. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa an ninh Quân đội và ngành Công an Liên khu V, vụ án đã được phá trước ngày bộ đội xuất quân. Trong thực tế, vụ án gián điệp hỏa xa xảy ra ba, bốn năm trước đó, nhưng tác giả đã xóa ranh giới thời gian để thể hiện ý đồ sáng tác của mình. Bảy, tám nhân vật tham gia vụ phá án đều tiếp tục tham gia chiến đấu lập công và trở thành gạch nối giữa hai phần của cuốn tiểu thuyết: chuẩn bị và tiến hành chiến dịch. Ngay đến ả điệp viên Bích Mậu của Phòng Nhì Pháp cũng đến khi gần kết thúc cuốn tiểu thuyết mới bị bắt giữ.

Trên góc độ công tác an ninh, tôi thấy có một nhân vật là Phó tư lệnh Liên khu V, dao động và phản bội, tác giả viết còn sơ sài. Tuy nhân vật này chỉ giữ vai trò phụ trong cuốn sách, tuy chỉ có tiếp xúc với nhân vật chính là Đại đội trưởng Bình một vài lần, nhưng do tác giả chưa làm rõ nhân thân của hắn nên việc hắn bỏ ngũ chưa làm sáng tỏ sự việc. Nhân vật Nguyễn Nhiên trong sách có tên thật ngoài đời là Nguyễn Nên. Sau ngày ra tập kết ở miền Bắc, tôi được gặp Đại tá Thân Hoạt, nguyên là thư ký của Tư lệnh Nguyễn Chảnh kể lại nhân thân của Nguyễn Nên.

Thời Pháp thuộc, trước Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Nên thầu cơm tù nhà lao cho thực dân Pháp. Hắn được các chiến sĩ cộng sản tuyên truyền, kết nạp vào Mặt trận Việt Minh rồi vào Đảng. Sau đó, hắn bị lộ, bị Pháp bỏ tù. Nguyễn Nên đã khai báo nhiều điều và cộng tác với kẻ thù, nhưng chưa lộ diện. Sau ngày tổng khởi nghĩa, Nên trở thành cán bộ lãnh đạo Việt Minh tỉnh Phú Yên rồi được điều vào quân đội làm chính trị viên Khu VI. Sau đó là Phó tư lệnh Liên khu V, Ủy viên Liên khu ủy và Quân khu ủy V. Trung cuộc chỉnh huấn năm 1951, Nguyễn Nên bị lộ tẩy, bị đưa ra khỏi Liên khu ủy và Quân ủy Liên khu V. Do bất mãn ngầm và dao động, Nguyễn Nên đã bỏ nhiệm sở sau chiến thắng Tây Nguyên và âm mưu chạy vào vùng địch nên bị bắt giữ. Đoạn văn này, tác giả viết non tay khiến người đọc khó hiểu vì sao một cán bộ cao cấp của Đảng và Quân đội lại phản bội, dù sự thực lịch sử có chuyện ấy.

Tóm lại, cuốn tiểu thuyết sử thi “Đèn kéo quân” của Lương Sĩ Cầm phục hiện được một giai đoạn lịch sử chống Pháp của quân dân Liên khu V, lời văn giản dị, mạch văn diễn tả cuộc sống đời thường và diễn biến cuộc chiến đấu có thay đổi giọng điệu, bố cục tạo được sự hấp dẫn người đọc


Bình luận
Chưa có phản hồi
Bạn phải đăng nhập mới có thể bình luận
DANH MỤC
TIN TỨC
THỐNG KÊ

Hôm nay: 1
Tháng : 1
Năm : 1