>>> Bút ký: Lê Lựu như tôi biết
>>> Tiểu luận phê bình: Nguyễn Tuân – Nhà văn của hình dung từ
>>> “Trong thế giới ngụy trang” của Phùng Hiệu
Về mặt đề tài, nguồn cảm hứng để tác giả hình thành “Hồ đồ” là hội chứng chất độc da cam mà quân đội Hoa Kỳ đã rải xuống các cánh rừng miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến những năm 60 của thế kỷ XX, đến nay đã trở thành vấn đề nóng bỏng của thời đại, thức tỉnh lương tâm nhân loại. Bắt đầu là một nhóm người rồi dần dà hình thành cả một tổ chức với quy mô toàn cầu, những nạn nhân da cam thế hệ thứ nhất và thứ hai, cả người Việt lẫn người Mỹ, tiến hành một cách bền bỉ, nhẫn nại, thu thập chứng cứ khởi kiện chính phủ Hoa Kỳ và các công ty hóa chất để đòi công lý.
Tinh thần cơ bản của cuốn tiểu thuyết giống như một bản cáo trạng, lên án những kẻ hồ đồ, gây ra bi kịch nhân sinh, được phát triển thông qua những dòng hồi ức khi sự kiện chất độc da cam đã lùi xa nửa thế kỷ. Tác giả không trực tiếp viết về hiện thực chiến tranh mà anh tìm đến cái bóng của nó, nghĩa là âm hưởng của cuộc xung đột đẫm máu vẫn còn dai dẳng tồn tại trong ký ức con người. Chiến tranh kết thúc từ lâu nhưng với những người mang hội chứng da cam thì dường như không bao giờ bước ra khỏi nỗi ám ảnh chết chóc.
Vậy ta có thể tạm quy ước mọi thao tác của các nhân vật chính trong “Hồ đồ” là thu thập hồ sơ chứng cứ chuẩn bị cho một vụ kiện lịch sử mà kết quả của nó khó có thể dự đoán.
Giống như “Hư thực”, “Hồ đồ” cũng có dạng kết cấu xâu chuỗi, các trường đoạn được khai triển đan xen nhau, về tổng quát thì vận hành theo quy luật tuyến tính, nhưng cũng không hiếm trường hợp sử dụng thủ pháp đồng hiện. Tuy nhiên về hình thức, cuốn tiểu thuyết này có vẻ như không mấy thuần nhất, nó là sự kết hợp của vài ba dạng cấu trúc, mà nét đặc biệt nhất là dạng cấu trúc không gian - tâm lý vốn bắt nguồn từ những ẩn ức chiến tranh được tái hiện qua hàng loạt tiểu tự sự.
Về đặc trưng thi pháp, phần chủ đạo vẫn là hiện thực cổ điển xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Nghĩa là, các đại lượng thời gian, không gian, cảnh vật, tâm lý nhân vật, xung đột nội tâm... vẫn vận hành theo quy luật tiểu thuyết truyền thống, nhưng khi cần tạo đột biến, tác giả có thể chuyển ngay sang phương pháp hiện thực huyền ảo, siêu thực, thậm chí hậu hiện đại. Mỗi mục được đánh số thứ tự trong 67 mục được xem như một lát cắt trong cuộc đời một nhân vật hoặc nhóm nhân vật. Họ phần lớn đều là nạn nhân chiến tranh bởi đã bị nhiễm chất độc da cam mà cả người đàn ông ở làng và giám đốc nông trường đều định danh nó một cách mỉa mai nhưng khá chính xác là “bị bắn lén”.
Xét đến cùng, phương pháp sáng tác thực chất chỉ là phương tiện, nên, khi chuyển dịch sang siêu thực hay hiện thực huyền ảo, mỗi lát cắt được xem như một truyện ngắn có thể tách riêng, độc lập nhưng vẫn nằm trong chuỗi sự kiện cấu thành nội dung tác phẩm. Như vậy, về mặt thi pháp, những lát cắt là những tiểu tự sự nằm trong một đại tự sự nhưng là một kết cấu mở, vô cùng linh hoạt, uyển chuyển, có thể thêm hoặc bớt các nhân vật, có thể kéo dài hay rút gọn mỗi mục mà không ảnh hưởng đến nội dung, tư tưởng tiểu thuyết. Điều này làm chúng ta nghĩ ngay đến lý thuyết “giải cấu trúc” và “liên văn bản”, người đọc, qua nội dung văn bản của tác giả, có thể tự mình “tái cấu trúc” thành những dạng văn bản mới theo quan điểm thẩm mỹ của riêng mình.
“Hồ đồ” có cách phát triển tuyến truyện theo dòng hồi tưởng. Nhân vật ngược dòng thời gian về quá khứ, làm sống lại những sự kiện và các mối quan hệ bằng phương pháp phản ánh hiện thực cổ điển. Quá trình này được lặp đi lặp lại nhiều lần. Quá khứ và hiện tại tương tác nhau, bổ sung cho nhau để giải thích lịch sử dưới góc nhìn phản biện. Thủ pháp hồi ức đan xen có chức năng giải thích hiện tượng vốn bị lớp bụi thời gian che phủ, đem đến cho người đọc một nhận thức mới, một cách nghĩ mới về những vấn đề thời đại như chiến tranh, hòa bình, nhân sinh, đạo đức cùng những giá trị văn hóa mà trước đây, vì nhiều lý do người ta chưa dám nghĩ đến hoặc chưa thể nghĩ đến. Chẳng hạn như gã cán bộ quân lực gạ tình những cô gái trẻ mới nhập ngũ đổi lấy việc không phải đi B hoặc được đi học nước ngoài, hay sự phản bội hèn hạ của tên sĩ quan Mỹ ARM khi hắn lợi dụng lòng nhân đạo của “người lính phía bên kia”.
Bằng thủ pháp hồi tưởng, tác giả sử dụng một lối kể qua mạch văn đôi khi mang tính “khiêu khích” với tiểu thuyết truyền thống, cho dù “Hồ đồ” thực ra vẫn nằm trong thi pháp tiểu thuyết cổ điển. Tính “nổi loạn” được biểu hiện khá rõ trong những câu văn thiên về triết luận, trong đó bao hàm cả động thái phê phán. Nhìn chung, câu văn của cuốn tiểu thuyết này có thể quy chiếu vào mô hình kể + tả + bình luận ngoại đề. Tất cả những thao tác trên đều đồng thời xuất hiện trong đoạn văn, thậm chí câu văn, tạo nên một dạng câu đặc trưng biểu hiện khá rõ tinh thần “khiêu khích” trong tiến trình phản biện. Các chuỗi phản biện ngầm này móc xích với nhau tạo nên những thông điệp nghệ thuật. Người đọc có thể nhất thời tiếp nhận bằng trực cảm chưa giải mã được bí mật ngón nghề. Nói cách khác, Phùng Văn Khai đã tìm ra được cách viết “ma ám”, anh ta thao túng văn bản, chơi trò ú tim chữ nghĩa mà một trong những quái chiêu độc đáo, tạo ra không ít mảng không gian u ám, làm mờ nhòe ranh giới giữa hiện thực và ảo giác.
Không gian của “Hồ đồ” hầu như không chấp nhận tính ước lệ, nó cụ thể, chi tiết, thậm chí có góc cạnh và linh hoạt, biến thái khôn lường, đôi khi làm người đọc phải sững sờ. Song hành với thứ không gian sinh động như bị yểm bùa mê ấy là những câu văn bình dị, không lên gân gay gắt mà thường nhấn nhá, tưởng như vô cảm, nhưng thực chất, bên dưới nó là tầng chìm nóng bỏng, sôi sục những ý tưởng, những quan điểm và thái độ thẩm mỹ.
“Ngoài kia dòng sông gầy guộc mùa đông đang thở, đang hát khe khẽ những lời chỉ cỏ cây mới hiểu. Sông ơi! Sông chảy thì ích gì. Sông đã chảy đi bao nhiêu nước và sẽ còn chảy bao nhiêu?”
“Đêm. Bức tường đen thẫm dựng thẳng đứng choán một khoảng không gian rộng lớn. Hàng vạn tên người nhỏ li ti, phẳng và dẹt in hằn vào bức tường đen đặc. Những hàng chữ sắc nhọn hằn sâu vào đá, gió đêm vi vút mơn man”.
“ Khi những tia nắng cuối cùng chui xuống dòng sông, cũng là lúc đầu óc Gã độc thân dần chuyển động nhanh hơn, những suy đoán đan cài, luân chuyển loang loáng trong trí não”.
“Hơn trăm mẹ nàng táo tợn, đáo để từ trong rừng thoát ra rồi lại bước vào rừng chắc chắn là một đám bất trị mà anh phải cai quản. Họ với biết bao những trò tinh nghịch đến quỷ quái của những cô ả quen khó dễ nũng nịu cấp trên thì anh khác gì một tên mõ làng trong đám người ghê gớm ấy”.
Câu văn trong “Hồ đồ” phát triển theo mô hình không cố định nhưng vẫn có thể quy vào mấy dạng thức phổ biển mà điển hình là câu trần thuật mở rộng thành phần. Các thành phần mở rộng luôn có xu hướng dùng tính từ, trạng từ bổ trợ thông tin, gia tăng hàm lượng thẩm mỹ, kích thích khả năng dự đoán, thẩm thấu sâu hơn vào tư tưởng, tình cảm của đối tượng tiếp nhận. Phải thừa nhận, mạch văn của “Hồ đồ” tuy mang khuynh hướng triết lý nhưng lại trực tiếp tác động đến tình cảm người đọc. Từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính là một quá trình gần như đồng thời bởi câu văn được viết giản dị, dễ hiểu với lớp từ thông dụng, giàu sắc thái biểu cảm.
Hệ thống nhân vật của “Hồ đồ” thường xuất hiện bằng hồi ức, nghĩa là chỉ hiện diện bởi lời kể của gã độc thân, đôi khi còn gián tiếp đến hai lần qua những dòng hồi tưởng của nhân vật thứ ba với những cấp độ khác nhau.
Ở cấp độ thứ nhất, những người là nạn nhân chiến tranh, đau khổ đến tận cùng, họ bị hoàn cảnh chi phối rơi vào bi kịch, được tác giả miêu tả như những cá nhân có phẩm cách cao đẹp bằng ngôn ngữ trang trọng với thái độ cảm thông, kính nể. Chị tóc dài, nữ y tá, người đàn bà lạc sông, người nhỏ bé, ông viện trưởng, người gác rừng... là những trường hợp điển hình.
Ở cấp độ thứ hai, những người tài năng, có cách nhìn sự vật, hiện tượng mang tính phê phán, luôn truy tìm nguồn gốc của những bất cập. Họ thường suy nghĩ và hành động không theo chuẩn mực giáo điều mà luôn muốn phá vỡ quy luật, tìm con đường của riêng mình dẫu biết họ cũng là nạn nhân chiến tranh, mang trong mình thứ chất độc quái ác, và tương lai cũng chẳng mấy sáng sủa. Loại nhân vật này được tác giả miêu tả khá sắc sảo một khi tính nghiêm túc bị pha loãng bởi chất cường điệu, hài hước.
Nhân vật Giám đốc nông trường là đấng mày râu đầy bản lĩnh và lòng nhân ái, nhất quyết từ bỏ người yêu tóc dài có giọng hát ngọt ngào khi biết mình nhiễm chất da cam nhưng cũng không thoát khỏi ngòi bút hoạt kê của Phùng Văn Khai. Đã từng là Giảng viên Đại học, cái đầu thích “nổi loạn” của anh ta đã phát minh ra một ý tưởng động trời, ấy là nhờ người bạn “điều động” mấy xe đàn ông lên nông trường giải quyết khâu “tình cảm” cho chị em nữ công nhân vốn là bộ đội và thanh niên xung phong quá lứa nhỡ thì. Kết quả là, chẳng bao lâu, nông trường đột nhiên tăng nhân khẩu với hàng trăm công dân nhí, vậy mà “ông bố vĩ đại” ấy chẳng những “bị” cấp trên lờ đi khoản kỷ luật mà còn ngầm cung cấp nhu yếu phẩm phục vụ các cháu.
Tuy nhiên, gây ấn tượng mạnh hơn hết vẫn là những đoạn văn miêu tả di chứng chất độc da cam qua hàng loạt hình ảnh khủng khiếp khi chị tóc dài sinh ra quái thai hay người đàn bà ở làng đẻ đến lần thứ tám vẫn chỉ là một hình hài bất thành nhân dạng: “ Chị tóc dài oằn rú lên. Một cục thịt đen thẫm, lầy nhầy, hình thù kỳ dị hiện dần, hiện dần dưới bàn tay mụ. Không nghe thấy tiếng khóc. Những bà lão dớn dác nhìn vào mắt nhau. Cả một đời dài dặc bây giờ họ mới giáp mặt với giây phút này. Khối thịt đen thẫm ngọ nguậy trong tay mụ đỡ. Mụ bàng hoàng kêu trời rồi chới với ngã sấp xuống đám xô chậu máu me”.
Ngọn bút của Phùng Văn Khai khi chạm đến hiện thực khốc liệt của thời hậu chiến đã biết chọn điểm dừng. Tác giả không muốn xoáy thêm vào nỗi đau của con người. Nhấn thêm chút nữa, đẩy hiện thực đến tận cùng là tàn nhẫn. Có lẽ hiểu rất rõ điều này nên anh đã chọn phương pháp miêu tả dễ dàng được người đọc chấp nhận, đó là hiện thực hư ảo, một thủ pháp phản ánh hiện thực nhưng được biểu đạt dưới cái vỏ huyền bí. Hình ảnh những đứa trẻ dị dạng sống trong chuồng gỗ, ngâm mình trong ống nghiệm, đã mai táng ngoài nghĩa địa hay đang du ngoạn trong những chiếc ang sành bồng bềnh trên một dòng sông, qua thủ pháp “huyền hoặc hóa” làm người đọc cảm nhận sâu hơn về về nỗi đau của những nạn nhân da cam khi bị những kẻ hồ đồ, nhân danh thứ học thuyết quái gở, nhưng thực chất lại vì lợi ích phe nhóm, đẩy cả một dân tộc vào thảm họa chiến tranh.
Có thể nói, xâu chuỗi các sự kiện, khai thác triệt để hồi ức chiến tranh làm tư liệu và sử dụng không gian huyền ảo trong quá trình phân tích trạng thái tâm lý nhân vật thông qua người dẫn chuyện là phong cách của tiểu thuyết “Hồ đồ”. Thành công đến mức nào xin để bạn đọc thẩm định, nhưng với cách nhìn của riêng mình, chúng tôi thấy Phùng Văn Khai đã có những thể nghiệm đáng trân trọng.