"Người phụ nữ của ngôn từ"
Marguerite Duras (1914 - 1996) sinh tại Gia Định (nay là TP HCM) trong một gia đình người Pháp có cha là giáo sư toán. Ông mở đồn điền nhưng thất bại, lâm vào cảnh nợ nần và mất năm 1918. Mẹ của Duras là hiệu trưởng một trường ở Sa Đéc - một thị xã nằm bên bờ sông Mê Kông. Sau khi chồng qua đời, bà ở vậy nuôi ba anh em Duras trong cảnh khốn khó.
Năm 18 tuổi, Duras rời xứ sở này trở về quê mẹ theo học Luật và Chính trị học. Sau đó, bà làm thư ký tại Bộ Thuộc địa từ năm 1935 đến 1941. Duras từng là một chiến sĩ cộng sản, từng hoạt động hết mình trong phong trào kháng chiến chống Đức Quốc xã hồi Thế chiến II. Sau đó bà chuyển sang viết văn.
Trong suốt cuộc đời, Marguerite Duras đã dùng ngôn ngữ để chuyển tải niềm đam mê và khao khát, nỗi đau và sự tuyệt vọng. Bà đã viết 51 cuốn tiểu thuyết, thực hiện 15 bộ phim cùng hàng chục vở kịch khác nhau, trở thành một trong những nhà văn quan trọng nhất thế kỷ XX của nước Pháp.
Tiểu thuyết "L'Amant" (Người tình) của bà ra mắt năm 1984 ngay tức khắc gây chấn động lớn, vùn vụt đạt số lượng phát hành kỷ lục, sau đó được tặng giải Goncourt, được dịch ra 43 thứ tiếng và được dựng thành phim.
7 năm sau đó, Duras một lần nữa trở lại với câu chuyện tình yêu ám ảnh giữa cô bé người Pháp mới lớn với chàng thanh niên Trung Hoa qua tác phẩm "L'Amant De La Chine Du Nord" (Người tình Hoa Bắc - 1991). Nổi tiếng trong trò chơi thật giả với văn chương, không ai biết những cuốn tiểu thuyết của Duras có bao nhiêu phần trăm là tự truyện.
Một trong những đóng góp lớn của Marguerite Duras là bà đã lưu lại bằng tiếng Pháp một phần văn hóa Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Trả lời tuần báo Pháp Le Nouvel Observateur về cuốn "L'Amant", Duras nói: "Tôi không thể giải thích được rõ rệt tại sao, chỉ cảm thấy nơi chốn chào đời ấy, với tuổi nhỏ và tuổi trẻ tôi ở đó, càng về cuối đời càng trở thành một hiện tại sáng rỡ trong tôi, như đó là bản mệnh tôi, như chính phần đời xa thẳm ấy tạo ra tất cả những phần đời của tôi sau nó. Và điều lạ lùng, cuốn sách này còn như một vệt sáng, một cắt nghĩa cho tất cả những cuốn sách tôi đã viết ra".
Không chỉ là một tiểu thuyết gia đại tài, Duras còn là một kịch tác gia, một nhà điện ảnh lỗi lạc với những tác phẩm như: "Hiroshima, mon Amour" (1959), "India Song" (1973), "Le Camion" (1977), "Les Mains Négatives" (1979)…
Tình yêu không có tuổi
Người chồng đầu tiên của Marguerite Duras là nhà thơ Robert Antelme. Họ kết hôn năm 1939 và có với nhau một con trai. Thế nhưng cuộc chiến khắc nghiệt đã cướp đi sự sống của đứa trẻ vào năm 1942. Vợ chồng Duras từng tham gia kháng chiến chống phát xít Đức, sau đó Antelme bị Gestapo bắt, qua nhiều trại tập trung, mãi sau chiến tranh kết thúc mới được giải thoát.
|
Một cảnh trong phim "Người tình" chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Duras. |
Trong khi Robert Antelme biệt vô âm tín ở các trại tập trung (nhiều người nghĩ rằng ông đã mất), Duras gặp và yêu nhà thơ Dionys Mascolo, bạn tri âm trong nghề cầm bút và cũng là đồng chí của hai vợ chồng bà ở tổ chức bí mật. Ông là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho Duras và là người trợ giúp tích cực nhất cho bà đi tìm chồng. Sau khi chia tay Robert Antelme (1946), Duras và Mascolo, mặc dù không làm đám cưới nhưng đã sống với nhau 10 năm hạnh phúc. Họ có cậu con trai Jean Mascolo (1947), người sau này cũng viết văn, làm điện ảnh…
Người tình cuối cùng của Duras là Yann Andreá (sinh năm 1952), kém bà tới 38 tuổi.
Họ gặp nhau lần đầu vào năm 1975 trong lần ra mắt bộ phim "India Song", khi Duras lừng danh đã 61 tuổi, còn chàng sinh viên khoa triết Yann Andreá mới 22. Trong 5 năm liền, chàng trai quê vùng Bretagne đã viết hàng trăm bức thư gửi nữ sĩ bày tỏ lòng khâm phục và ngưỡng mộ bà. May mắn thay, anh được bà hồi âm. Ngày "định mệnh" 29/7/1980, Andreá gọi điện xin được gặp mặt nữ sĩ, lúc đó đang nghỉ tại thành phố biển Trouville. Bà nói: "Hãy đến đây đi, chúng ta sẽ cùng nhau cụng ly". Andreá nhớ lại: "Lúc đó tôi đang ở không xa Trouville nên đã đến đó ngay. Tôi và bà cùng uống với nhau một ly rượu và không rời xa bà nữa. Một ly rượu thôi mà có thời gian dài đến 16 năm cơ đấy".
Mối tình say đắm, khập khiễng và tốn nhiều bút mực của công luận này từng được Duras nói đến với tất cả lòng say mê và biết ơn, như báu vật cuộc đời đã ban tặng cho bà. Một số tiểu thuyết của bà đã in dấu mối tình sâu đậm của hai người như "L'homme Atlantic", "Yann Andreá - Steiner"… Về phần mình, trong tác phẩm "Cet amour", Andreá cũng đã dành tặng cho Duras những xúc cảm tươi mới và nồng nàn nhất.
Chênh nhau gần 40 tuổi, giữa hai người thường xảy ra nhiều sóng gió và xung đột. Yann Andreá kể, đôi khi Duras muốn coi ông là sở hữu riêng của mình, không muốn ông tiếp xúc hay quan hệ với người khác. Nhưng ông lại muốn có cuộc sống riêng. "Sống với bà thật tuyệt vời nhưng cũng thật khó khăn. Văn chương chính là người thứ ba trong cuộc sống của chúng tôi, giúp chúng tôi gắn bó với nhau" - Ông giãi bày.
Có thể coi giai đoạn yêu Yann Andreá là thời kỳ sáng tác sung sức nhất của Duras. Hầu như những tác phẩm quan trọng nhất Duras viết kể từ cuộc tình định mệnh, dấn thân này. Cần mẫn, ái mộ, Yann Andreá không chỉ là người tình của Duras mà còn là thư ký, tài xế, y tá, "nô lệ" và là nơi để bà trút tức giận nữa. Chỉ đến khi Duras qua đời, Andreá mới sực tỉnh và hiểu ra rằng, với tuổi tác chênh lệch như thế, Duras hoàn toàn có thể là bà nội của ông. Nhưng từ khi gặp bà lần đầu cho đến lúc bà mất, ông dường như bị cuốn vào chốn mê cung của ái tình. Đã bao lần, vì không chịu nổi cái tính khí kỳ quặc của Duras, Andreá đã chạy trốn khỏi bà, nhưng rốt cuộc cũng vẫn quay trở lại bên bà.
Người tình tri kỷ
Trải qua hai cuộc hôn nhân đổ vỡ cùng nhiều mối tình phóng túng thoáng qua, nhưng tình yêu đầu luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong lòng Duras. Duras từng nói: "Anh ấy làm cho những mối tình khác trong cuộc đời tôi đều bị lu mờ, kể cả những cuộc tình chính thức thành chồng thành vợ".
Bước vào tuổi 15, số phận đã run rủi sắp đặt cho cô gái Pháp mới lớn gặp gỡ và yêu say đắm "người tình" - một người đàn ông Trung Hoa 27 tuổi. Trên chuyến phà định mệnh từ Vĩnh Long đi Sa Đéc, Duras gặp gỡ công tử Huỳnh Thủy Lê (người Việt gốc Hoa) mới du học từ Pháp về. Tình yêu giữa hai người nảy nở. Không ai cắt nghĩa được vì sao chàng công tử hào hoa, giàu có, nhiều gái đẹp vây quanh lại say đắm cô thiếu nữ gầy gò, cơ thể còn chưa phát triển hết. Không lâu sau, Duras thường xuyên bỏ trốn khỏi trường nội trú để hưởng thụ những đêm nồng nhiệt với người tình trong căn hộ độc thân của anh tại khu Chợ Lớn. Chàng công tử muốn cưới cô nhưng vấp phải sự ngăn cấm từ gia đình của cả hai bên vì không "môn đăng hộ đối". Mặc dù phải chia tay "người tình" ngay khi vừa tròn 18 tuổi để trở về mẫu quốc nhưng thiên tình sử đầy khổ đau và nhục cảm ấy đã là phần máu thịt của Duras.
Mối tình đầu đã ám ảnh bà cho đến tận những năm tháng cuối đời. Tiểu thuyết "L'Amant" ra mắt năm Duras đã 70 tuổi mà văn chương vẫn rạo rực như thuở thiếu thời.
Mấy năm sau, khi nghe tin người tình tri kỷ qua đời, tất cả những kỷ niệm nồng nàn cháy bỏng từ thời thanh xuân lại ùa về nguyên sơ khao khát trong bà. Trong "L'Amant De La Chine Du Nord", bà viết: "Tôi được biết anh ấy đã qua đời. Đó là vào tháng 5/1990, cách đây một năm. Tôi chưa bao giờ từng nghĩ đến sự ra đi của anh ấy. Người ta còn nói với tôi rằng anh được an táng tại Sa Đéc, rằng ngôi nhà màu xanh vẫn luôn ở chỗ đó, nơi gia đình và con cái anh ấy cư ngụ...
Tôi viết cuốn truyện này trong niềm hạnh phúc điên dại. Tôi đắm chìm vào cuốn tiểu thuyết một năm, giam mình trong năm đó cùng với tình yêu giữa người đàn ông Trung Hoa và cô bé. Tôi không đi xa hơn chuyến khởi hành của con tàu, nghĩa là chuyến ra đi của cô bé. Tôi đã không hình dung ra được người đàn ông Trung Hoa lại có thể ra đi, sự ra đi của thân thể, làn da, đôi bàn tay anh. Trong suốt một năm, tôi đã thấy lại cái độ tuổi khi mình đi qua dòng Mekong trên chuyến phà từ Vĩnh Long".
Và Duras nhận ra rằng, bà đã mãi mãi để lại trái tim tuổi thanh xuân của mình ở mảnh đất Sa Đéc…