Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ luật dân sự giữ vị trí quan trọng đặc biệt: là cơ sở pháp lý đìeu chỉnh các mối quan hệ dân sự đa dạng, phức tạp giữa các chủ thể có địa vị pháp lý bình đẳng. Thông qua việc quy định địa vị pháp lý và các chuẩn mực trong quan hệ dân sự của các chủ thể, Bộ luật dân sự góp phần bảo vệ sự an toàn pháp lý trong các quan hệ dân sự, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội đất nước một cách bền vững…
Ngày 14-6-2005, Quốc hội khoá XI đã ban hành Bộ luạt dân sự năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2006 thay thế cho Bộ luật dân sự năm 1995 với định hướng chung là Bộ luật dân sự năm 2005 trở thành luật chung, là cơ sở để các luật chuyên ngành khác lấy làm căn cứ điều chỉnh các mối qua hệ dân sự, tạo thành một hệ thống pháp luật thống nhất, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ khi áp dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng (bên cạnh các quan hệ dân sự truyền thống là cả các quan hệ hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động).
MỤC LỤC:
Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự
Chương 17: Những quy định chung
Chương 18: Hợp đồng dân sự thông dụng
Chương 19: Thực hiện công việc không có ủy quyền
Chương 20: Nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
Chương 21: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trân trọng giới thiệu!