Ngay từ những năm sau thế chiến thứ hai, thi ca là thể loại văn chương luôn bị đặt trong tình trạng dự báo tuyệt chủng. Thế mà hơn nửa thế kỷ qua, dù có bao gập ghềnh, thơ cứ sống. Có điều, ế. Thông tin không chính thức, tại Mỹ mỗi năm có hàng ngàn tờ báo về thơ ra đời rồi... chết. Ở Pháp, tình trạng cũng không lấy gì khá hơn. Các nhà thơ ở các nước tiên tiến than ế đã đành, ngay nước Việt Nam tự hào là đất nước thi ca, mới đây - sau Liên hoan Thơ châu Á - Thái Bình Dương lần thứ nhất tổ chức tại Hạ Long - một nhà thơ còn khẳng định rằng "Việt Nam là cường quốc thơ" nữa, các nhà ta cũng than thơ in ra không bán được, mà biếu tặng cũng không... chạy!
Chưa nói nhà sách ở tỉnh lẻ, ngay các hiệu sách lớn tại trung tâm văn hóa lớn như thành phố Hồ Chí Minh: Nguyễn Huệ, Xuân Thu, Nguyễn Văn Cừ... dẫu nhiệt tình với thơ tới đâu cũng đã đẩy quầy thơ vào một góc cực kỳ khiêm tốn. Tại chốn hẻo lánh này, tập thơ trưng bày chủ yếu là các tác gia cổ điển hay tác phẩm được dùng dạy trong nhà trường; còn thơ đương đại nếu có, cũng chỉ có mặt lác đác dăm ba tác giả. Vậy mà các thế hệ người làm thơ cứ liên tục nối đuôi nhau xuất hiện. Hằng năm, các tập thơ cứ cấp tập được cho ra lò. Cuối thế kỷ trước, mỗi năm cả nước có non ngàn tập thơ ra đời. Rồi sang thập niên thứ hai của thế kỷ 21, lượng đầu tập thơ được in vẫn tăng lên đều đặn. Đó là chưa kể thơ in photocopy, thơ đăng báo, thơ post lên mạng...
Người làm thơ nhiều, nhưng người đọc thơ chẳng có bao nhiêu, nếu không muốn nói ngày càng sa sút. Thơ làm ra chỉ dành cho người làm thơ đọc của nhau, có lẽ. Mà chưa chắc họ đã đọc của nhau nữa? Mới năm ngoái thôi, một nhà thơ đang thời kỳ viết sung sức, in sung sức kêu trời: "Không nên ngạc nhiên về sự không bán được thơ", đùng cái, năm nay một nhà thơ thời danh khác đưa nhận định rất ư là... vui tính: "Đừng ngạc nhiên: thơ vẫn bán chạy"! Người đọc có quyền đặt câu hỏi: Tập thơ nào của tác giả nào bán chạy? Thế nào là "chạy"? Cứ làm thử phép tính đơn giản thôi, cũng đủ biết.
Chuyện vui: Tập thơ Hành Hương em của tôi in năm 1999, ký gửi 50 cuốn tại Hiệu sách Trung tâm thành phố Đà Lạt, 5 năm sau tôi ghé vào hỏi, cô phụ trách khoe: - Thơ anh bán chạy lắm. Thế là cô làm quyết toán sổ sách, trả lại cho tôi 17 cuốn thừa. Anh bạn thơ đi với tôi ngạc nhiên, hỏi: - Vậy mà gọi là chạy à? - Anh không biết chứ, có tác giả gửi mươi cuốn, bảy năm sau vẫn còn nguyên con số mười.
Thân phận thơ tiếng Việt của nhà thơ Việt trong đất nước non chín mươi triệu dân đang nói tiếng Việt đã thế, xin hỏi khi các tập thơ đó được chuyển dịch ra tiếng Anh, thì lấy đâu người đọc? Vậy mà chúng cứ được cho ra đời quá ư là vô tư. Lạ chưa?
Nhìn lướt qua kệ sách của tủ sách gia đình đang bày biện thơ của các tác giả Việt Nam được dịch sang tiếng Anh với non trăm cuốn cả thảy, thấy gì ở đó? Các tập thơ song ngữ Việt - Anh của các tác giả đã nổi tiếng hay chỉ ở tầm trung bình in trang trọng, trình bày khá bắt mắt. Câu hỏi đầu tiên được đặt ra là: ai dịch? Không ai cả, mà chỉ người Việt dịch của nhau. Quanh đi quẩn lại vài tên tuổi quen thuộc. Vâng, thì toàn cầu hóa, cần thiết đưa sản phẩm văn hóa ra với thế giới rộng lớn hơn. Mà văn chương cũng là một thứ hàng hóa như bao hàng hóa khác: hàng hóa cao cấp. Cho nên, việc hàng hóa mới mẻ này có mặt là cần thiết. Nhưng dịch như thế nào, để hàng hóa cao cấp ấy có thể bán được ra thị trường ngoài kia? Dù có bao nhiêu than phiền về chất lượng của chúng, lần nữa -lại không vấn đề gì cả. Bởi mới chập chững, sản phẩm có tốt có xấu, bản dịch có hay có dở, dở trước rồi rút kinh nghiệm để sau làm hay hơn. Một câu hỏi cốt tủy hơn cả là: ai đọc?
Có thể nói: không ai cả. Độc giả thơ người Việt nếu có đọc thì đọc thơ tiếng Việt của tác giả mình yêu thích, có chập cheng mới đi mò đọc bản dịch tiếng Anh. Còn độc giả thơ ngoài "thế giới" Việt Nam, ai đọc? Chắc chắc chỉ có vài nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, dăm chục sinh viên Việt Nam học, thêm ít kẻ tò mò nữa. Chấm hết. Đó là giả dụ các tập thơ kia may mắn được bày ở hiệu sách hay được giới thiệu trong các cuộc triển lãm sách ở nước ngoài. Đằng này, chẳng có lấy nửa "lý do chính đáng" nào cả, các nhà thơ ta cứ tự dịch (hay thuê người dịch) thơ mình ra tiếng Anh, Pháp... Festival Thơ thế giới hay khu vực - không. Giao lưu văn hóa - không. Nhận Giải thưởng Văn học Đông-Nam Á -không. Không gì cả, chúng ta dịch để tặng nhau và, chờ... cơ hội. Cơ hội nào? Không ai biết! Chỉ biết rằng không ít nhà- khi cầm ấn bản tập thơ của mình được chuyển ngữ tiếng Anh, Pháp... trên tay - mang ảo tưởng rằng nó đang tiếp cận với thế giới. Vậy thôi.
Hai năm sau Hội nghị quảng bá Văn học Việt Nam ra thế giơíkéo dài suốt tuần với hơn trăm rưỡi khách nước ngoài tham dự, mãi đến hôm nay, hỏi có tập thơ của tác giả nào được các nhà xuất bản lớn đặt hàng xuất bản? Và Hội Nhà văn Việt Nam đã chủ động được gì trong công tác xúc tiến việc quảng bá kia? Vẫn chưa gì cả.
Không ít nhà thơ Việt Nam nghe sốt ruột, quyết chọn đi theo con đường tiểu ngạch. Nhưng cuộc chơi này sẽ đi đến đâu? Các tập thơ dịch rồi sẽ trôi về đâu, ngày mai? Văn chương là trò chơi vô tăm tích, - ai nói thế? Trong thế giới chữ nghĩa, thơ luôn giữ vị trí dẫn đầu ở trò vô tăm tích kia. Thơ của nhà thơ Việt Nam được chuyển dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp... lại càng... buồn thay!