Tác giả: Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - Trung tâm lý luận chính trị
Số trang: 556
Giá tiền: 87.000 đồng
Nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VII) về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay là sự tiếp nối sự nghiệp đổi mới tư duy do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Như đã biết, tại Đại hội này, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật Đảng ta đã vạch ra những hạn chế, thiếu sót trong nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn, dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Báo cáo chính trị tại Đại hội VI đã chỉ rõ: “Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan; do đó, không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế”[1].
Kiên quyết khắc phục những hạn chế về tư tưởng, lý luận, về nhận thức, lãnh đạo và chỉ đạo hoạt động thực tiễn, Đại hội VI đã mở ra đột phá có tính bước ngoặt trong đường lối phát triển, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, gắn với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VII) tiếp tục phân tích những thành quả và hạn chế trong lĩnh vực tư duy lý luận sau hơn 5 năm đổi mới, và vạch ra phương hướng, giải pháp trong công tác này, góp phần vào sự phát triển ổn định của đất nước, trước hết là ổn định tư tưởng, đồng thuận xã hội, hình thành lý luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.
Đã hơn 20 năm trôi qua kể từ khi Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết 01-NQ/TW ngày 28-3-1992 về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay[2] (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 01) của Bộ Chính trị, đất nước đã tạo được những bước chuyển quan trọng trên con đường đổi mới và hội nhập quốc tế. Trong lĩnh vực tư duy lý luận, thành quả đáng kể nhất là những đột phá trong tư duy kinh tế, hình thành bước đầu mô hình về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên cơ sở nhận thức đúng đắn biện chứng cái phổ biến - cái đặc thù, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới và củng cố hệ thống chính trị, lý luận về việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự ổn định, sự đồng thuận toàn xã hội về tư tưởng, mở rộng đối thoại, trao đổi quốc tế về lý luận, chống lại các quan điểm sai trái, kiên định con đường phát triển phù hợp với xu thế chung của nhân loại tiến bộ. Chính điều này góp phần vào sự ổn định và phát triển của đất nước, ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, kịp thời uốn nắn những lệch lạc và ngộ nhận về mặt lý luận trước những biến đổi mang tính toàn cầu trong đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa.
Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị (khóa VII) về công tác lý luận là văn bản có tính chất định hướng về lý luận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam. Sau khi phân tích những thành quả và những mặt yếu kém trong công tác lý luận, Nghị quyết 01 đã xây dựng quan điểm phát triển của Đảng ta bằng bốn phương châm lớn và chín hướng nghiên cứu, với mục tiêu làm rõ mô hình phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, hướng đến năm 2020.
Nhìn lại những vấn đề được nêu ra trong Nghị quyết 01, có thể nhận thấy tư tưởng xuyên suốt trong công tác lý luận hiện nay chính là vận dụng sáng tạo và phát triển những luận điểm, nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, hình thành “bản sắc” Việt Nam về tư duy lý luận thông qua kế thừa có chọn lọc tinh hoa trí tuệ của dân tộc và sức mạnh của thời đại.
Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị ra đời chỉ ba tháng sau khi M. S. Goócbachốp tuyên bố giải thể Liên bang Xôviết (ngày 25-12-1991). Thời điểm ấy rất cần sự nhạy bén khoa học và bản lĩnh chính trị của Đảng trong việc nhận diện thực trạng tư duy lý luận và vạch ra những định hướng chiến lược nhằm khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, những vấn đề được thể hiện trong Nghị quyết có tính chiến đấu lẫn tính khoa học sâu sắc, mở ra khả năng phát triển tư duy lý luận trong điều kiện phức tạp và đầy mâu thuẫn của đất nước sau cơn địa chấn chính trị do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô gây ra.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng vai trò của lý luận. Tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam hình thành từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, từ những kinh nghiệm và bài học của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, từ những trải nghiệm bi hùng của lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta, từ chiều sâu của bản sắc văn hóa dân tộc, được cô đọng, kết tinh trong đường lối cách mạng của Đảng suốt hơn 80 năm qua, trở thành kim chỉ nam, thành định hướng phát triển của dân tộc trong thời đại mới.
Bốn phương châm lớn, chín hướng nghiên cứu lớn và sáu biện pháp, được Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị nêu ra, trên cơ sở kế thừa và làm rõ nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ VII và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cho đến nay vẫn tiếp tục gợi mở cho các nhà lý luận trong việc tổng kết thực tiễn, xác lập những luận cứ khoa học cho quá trình hoạch định chiến lược, đường lối phát triển đất nước trong thế giới mở, nhưng hết sức phức tạp hiện nay.
Như Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị đã nêu, phát triển tư duy lý luận không chỉ là công việc của những người trực tiếp làm công tác lý luận, mà là công việc của Đảng, của tất cả những ai tha thiết với sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam vững mạnh và phồn vinh. Để phát triển tư duy lý luận, cần xây dựng đội ngũ làm công tác lý luận có năng lực chuyên môn cao và tâm huyết, đồng thời tạo nên sự liên kết giữa công tác lý luận và hoạt động thực tiễn, giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật.
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là hệ thống đa ngành, đa lĩnh vực, với 6 trường đại học thành viên, 1 khoa trực thuộc, trên 30 trung tâm nghiên cứu và dịch vụ. Trong nhiều năm qua, việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu lý luận được quan tâm đáng kể, trong đó có đầu tư nguồn lực, phát triển đội ngũ, tăng cường hợp tác quốc tế. Hàng trăm công trình nghiên cứu về lý luận trong nhiều năm qua tại các trường có thế mạnh về khoa học xã hội và nhân văn, về đào tạo và nghiên cứu lý luận như Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Trường Đại học Bách khoa, Trung tâm Lý luận chính trị đã góp phần làm rõ các hướng nghiên cứu như Nghị quyết 01 nêu ra. Trong số các công trình lý luận tiêu biểu có nhiều công trình đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc làm rõ và khẳng định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nội dung cơ bản và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, nêu ra bước đầu những luận cứ khoa học của việc xây dựng mô hình về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nghiên cứu về nguyên nhân sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô, những vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về hệ thống chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống, các giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, vấn đề phát triển vùng, gắn với các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Tây Nguyên, vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận, vấn đề đấu tranh tư tưởng. Đặc biệt, trong
5 năm gần đây, bên cạnh các khoa học về lý luận chính trị như triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học, kinh tế chính trị học, Hồ Chí Minh học, lịch sử Đảng, các ngành khoa học chuyên biệt như nhân học, kinh tế học, lịch sử, địa lý, văn hóa học, văn học - ngôn ngữ, xã hội học, chính trị học, Việt Nam học, khoa học pháp quyền, v.v. đã đạt được những kết quả tốt, không chỉ đáp ứng nhu cầu cung cấp luận cứ cho chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội... mà còn góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế thông qua trao đổi học thuật, tọa đàm quốc tế. Việc nghiên cứu, luận giải và khẳng định chủ quyền đất nước, bảo đảm an ninh chính trị, tăng cường quốc phòng toàn dân, việc kết hợp giữa giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, phát huy nhân tố con người là điểm nhấn quan trọng trong nhiều công trình nghiên cứu.
Công tác lý luận, từ những vấn đề lý luận chung đến việc giảng dạy, nghiên cứu, bồi dưỡng, học tập lý luận chính trị tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được quan tâm sâu sắc. Đảng ủy, Ban Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, lãnh đạo các đơn vị thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh luôn xem công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học về lý luận chính trị là lĩnh vực then chốt nhằm giáo dục thế giới quan, phương pháp luận, tư tưởng cho người học, nâng cao năng lực tư duy, nâng cao tinh thần, trách nhiệm của cán bộ, viên chức, công chức trong việc bảo đảm ổn định chính trị, tổ chức, góp phần bảo vệ chế độ, bảo vệ những thành quả mà nhân dân ta đã giành được trong cuộc trường chinh hàng thế kỷ vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc và vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã có tổ chức bộ máy quản lý giảng dạy, học tập mang tính hệ thống đồng bộ và vận hành khá hiệu quả. Lãnh đạo Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cử một Phó Giám đốc trực tiếp phụ trách công tác lý luận chính trị; Trung tâm Lý luận chính trị trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, điều hành, quản lý, theo dõi, kiểm tra hoạt động giảng dạy, học tập và đánh giá chất lượng đào tạo các môn lý luận chính trị; các khoa và bộ môn ở Trung tâm Lý luận chính trị và các đơn vị tổ chức các hoạt động giảng dạy, học tập và chủ động quản lý, kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo của đơn vị mình, báo cáo với lãnh đạo Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là hệ thống quản lý thống nhất, có sự phân công về công việc gắn liền với trách nhiệm. Đối với các trường có đào tạo chuyên ngành các môn lý luận chính trị, các khoa (hoặc các bộ môn) lý luận chính trị trực thuộc trường được xây dựng và củng cố, chịu trách nhiệm đào tạo chuyên ngành và giảng dạy các môn lý luận chính trị cho khối sinh viên không chuyên ngành của trường mình; đồng thời, tham gia liên kết với các trường và các địa phương trong việc đào tạo và nghiên cứu lý luận chính trị. Đối với các trường không đào tạo chuyên ngành các môn lý luận chính trị thì hình thành các bộ môn lý luận chính trị thuộc trường, chịu trách nhiệm giảng dạy các môn lý luận chính trị của trường mình; đồng thời tham gia liên kết đào tạo lý luận chính trị đối với các trường và địa phương theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Đa số giảng viên lý luận chính trị của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tham gia chương trình thực tế hàng năm theo Quyết định số 494/QĐ-TTg ngày 26-4-2002 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học và cao đẳng.
Hiện nay, đội ngũ giảng viên lý luận chính trị tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh gồm 72 giảng viên, trong đó có 8 phó giáo sư - tiến sĩ, 31 tiến sĩ, 31 thạc sĩ và 2 cử nhân. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh khuyến khích các giảng viên nghiên cứu và đăng kết quả trên các tạp chí khoa học chuyên ngành ở trong và ngoài nước; hằng năm tổ chức các hội nghị, hội thảo để các giảng viên rèn luyện tư duy, nâng cao tri thức và phương pháp giảng dạy. Trung tâm Lý luận chính trị trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề về nội dung mới của các môn học và về phương pháp, kỹ năng và kinh nghiệm giảng dạy, nghiên cứu cho đội ngũ giảng viên. Đến nay, đa số các giảng viên đã tiếp cận được các phương pháp hiện đại trong nghiên cứu và giảng dạy, 100% giảng viên đã sử dụng các phương tiện, kỹ thuật hiện đại để giảng bài, tổ chức xêmina và khảo sát thực tiễn.
Là một trong hai đơn vị thuộc hệ thống các trường đại học phía Nam được giao nhiệm vụ tổ chức tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã nghiêm túc triển khai công việc này thông qua các hoạt động tìm hiểu, nghiên cứu, khảo sát và chia sẻ kinh nghiệm với các địa phương và trường đại học trong và ngoài Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Các đoàn công tác đã tiến hành khảo sát, chia sẻ kinh nghiệm với Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng và Đại học Đà Lạt, Ban Tuyên giáo Thành ủy thành phố Cần Thơ và Đại học Cần Thơ, trao đổi công việc với các ban tuyên giáo tỉnh ủy và trường đại học các khu vực khác từ Tây Nguyên đến vùng đồng bằng sông Cửu Long. Điểm chung thu được trong quá trình khảo sát và chia sẻ kinh nghiệm là: sự nỗ lực cao và những kết quả đáng trân trọng của đội ngũ những người làm công tác lý luận trong việc giảng dạy, nghiên cứu, góp phần ổn định chính trị, tư tưởng, xử lý và đề xuất xử lý các điểm nóng về tư tưởng, tham mưu cho cấp ủy và chính quyền trong các quyết sách liên quan đến tư tưởng, lý luận, đề xuất tăng cường không khí dân chủ, cởi mở và có nguyên tắc trong thảo luận, tranh luận khoa học, đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội và những biểu hiện sai trái trong tư tưởng, chống “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, xây dựng chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng đối với những người làm công tác lý luận, mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác lý luận. Tất cả các kiến nghị của đội ngũ làm công tác lý luận tại Thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương đều hướng đến cải tiến hơn nữa việc quản lý công tác lý luận, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ, hướng những vấn đề lý luận bám sát nhu cầu thực tiễn xã hội.
Cuốn sách Tổng kết thực hiện Nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay là kết quả của Hội thảo khoa học “Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 01-NQ/TW ngày 28-3-1992 của Bộ Chính trị (khóa VII) về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay và định hướng đến năm 2020”.
Các bài viết trong cuốn sách là những dòng tâm huyết và trách nhiệm của những người làm công tác lý luận, tha thiết với sự nghiệp đổi mới đất nước, hiến kế cho Đảng trong việc hình thành một chủ thuyết phát triển đặc trưng của Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới. Không ít bài viết bày tỏ sự day dứt, băn khoăn của nhà khoa học trước những bất cập, mâu thuẫn trong công tác lý luận, đào tạo lý luận chính trị, đồng thời gợi mở những ý tưởng quý báu cho việc phát triển tư duy lý luận nước nhà trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Những suy tư, trăn trở ấy thật đáng trân trọng và chia sẻ.
Mặc dù tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng, song đây là một vấn đề rộng lớn với nội dung phong phú nên chắc chắn còn nhiều nội dung cần được tiếp tục trao đổi, thảo luận. Mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu và chân thành của bạn đọc.
Chúng tôi chân thành cảm ơn các nhà khoa học, các nhà giáo đã cộng tác thực hiện công trình, cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật đã tạo điều kiện để cuốn sách ra mắt bạn đọc.
Phan Thanh Bình
ỦY VIÊN TRUNG ƯƠNG ĐẢNG,
BÍ THƯ ĐẢNG ỦY,GIÁM ĐỐC ĐẠI HỌC QUỐC GIA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 361.
[2]. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 52, tr. 18-29.