Nói đến các bộ thông sử có tiếng của Việt Nam dưới thời phong kiến, hẳn không ai có thể bỏ qua hai tác phẩm quan trọng: Đại Việt sử ký toàn thư do Quốc sử quán triều Lê nhiều đời kế tiếp biên soạn, và Khâm định Việt sử thông giám cương mục do Quốc sử quán triều Nguyễn dựa chủ yếu vào Đại Việt sử ký toàn thư và biên soạn lại vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Một trong hai bộ sử đó tuy có được phiên dịch một vài phần từ trước Cách mạng tháng Tám nhưng phải đợi đến những năm 60-70, với công trình dịch thuâtj và chú giải nghiêm túc của các dịch giả trong Tổ biên dịch Viện Sử học, cả hai bộ mới được công bố một cách trọn vẹn.
Tuy nhiên, sau khi đọc 4 tập Đại Việt sử ký toàn thư đã dịch và xuất bản rồi so sánh theo từng năm tháng với Khâm định Việt sử thông giám cương mục, các nhà sử học đều nảy sinh một mối phân vân: tại sao Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép lịch sử dân tộc từ họ Hồng Bàng trở đi (bao gồm các phần Ngoại kỷ, Bản kỷ, Bản kỷ thực lục, Bản kỷ tục biên) lại chỉ chép đến năm 1675 đời Lê Gia Tông, tức hết quyển XIX, là kết thúc? Trong khi, Khâm định Việt sử thông giám cương mục dựa trên bộ "sử mẹ" đó thì lại chép được đến tận năm 1789 là năm cuối đời Lê Chiêu Thống, ông vua cuối cùng của triều Lê, tức là dài hơn Đại Việt sử ký toàn thư đến 114 năm? Phải chăng cơ quan chép sử của triều đình nhà Lê chỉ mới chính thức soạn xong lịch sử biên niên của triều đại mình cho đến năm 1675 mà thôi, còn từ 1676 đến 1789 gồm 114 năm về sau thì chưa soạn kịp? Và các sử gia triều Nguyễn sau này đã độc lập tìm kiếm những nguồn tài liệu ngoài Đại Việt sử ký toàn ký toàn thư để bổ sung và xây dựng sử liệu cho 114 năm nói trên trong cuốn Khâm định Việt sử thông giám cương mục?
Xin trân trọng giới thiệu!