Văn học miền Nam gói trọn trong 21 năm (1954-1975) là một nền văn học tự thân, hầu như không có tính kế thừa từ lớp trước, có chăng chỉ là âm hưởng của một số tác giả tiền chiến. Nhưng với thi ca miền Nam, thì ảnh hưởng này lại rất ít. Đông Hồ, Quách Tấn, Vũ Hoàng Chương hầu như không tạo được ảnh hưởng gì đối vói đội ngũ các nhà thơ trong giai đoạn này.
Lực lượng làm thơ thì vô cùng hùng hậu, dù trong đó, những ngày chiến tranh ác liệt đã nuốt trọn gần 15 năm. Đến nay, cũng chưa ai làm cái công việc tổng hợp lượng thơ đã in thành tập, hay đăng trên các báo giai đoạn này. Sách báo thất tán, tác giả người còn, người mất, người ra nước ngoài định cư. Điều kiện góp nhặt thật vô cùng nan giải.
22 Tản Mạn của Võ Chân Cửu cho ta hình dung lại rất nhiều khuôn mặt thi ca của miền Nam. Có nhiều tác giả mà hiện nay với độc giả thế hệ 8X trở đi, hầu như không ai biết cả. Nhưng họ vẫn còn đó với thời gian, phong phú với những sáng tác của mình. Có lẽ đây được xem như những trích đoạn Hồi ký cho nhiều dòng thơ xuất hiện trước năm 1975 ở miền Nam.
Chắc nhà thơ Võ Chân Cửu không muốn vậy. Nhưng theo dõi suốt loạt bài, chúng ta vẫn thấy ngồn ngộn sự kiện sinh hoạt văn chương vùng đất phía Nam thời chia cắt. Trong đó, bao gồm những chuyện tâm tình, tâm thế, cá tính. Và cả chuyện “bếp núc” của mỗi nhà thơ. Chưa nhất thiết phải chi li phân loại từng khuynh hướng, từng thòi kỳ, từng địa phương... chúng ta vẫn có thể thấy trong tập Tản Mạn này đủ các trào lưu, các trường phái trong nền thi ca miền Nam trước đây.
Đôi chân xê dịch, trái tim hết lòng vì bè bạn và nguồn tư liệu phong phú đã kết nối Võ Chân Cửu với đa phần văn nghệ sĩ miền Nam. Từ các lão làng tiền bối như Quách Tấn, Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương... đến các bậc đàn anh như Cung Trầm Tưởng, Thanh Tâm Tuyền, Viên Linh, Trần Đức Uyển, Tuệ Sỹ... và các bạn cùng trang lứa - không thể kể ra hết ở đây - đã tạo cho tập Tản Mạn thành một bức tranh đa sắc, độc đáo, mà vẫn đẫm tình người, dù đâu đó Võ Chân Cửu đã bóng gió nói đến một vài “nhân vật” mượn thi ca vào mục đích khác, cho riêng họ.
Cái thấm đẫm của Võ Chân Cửu vào những trang viết, không phải từ những trích dẫn của từng tác giả, mà lại đi từ những ý tưởng, những ghi nhận, những sự vật... đôi khi không có gì dính dáng đến thơ. Điều gây thích thú là cách đặt nhan đề cho từng Khúc Tản Mạn. Như Lá vú sữa, Rau tập tàng, Tiếng chim tu hú, Đường vân gỗ, Gỗ và Đá, Tiếng thác non xa...
Có thể thấy ngay cách tìm từ và đặt nhan đề của Võ Chân Cửu. Như trong bài Đường vân gỗ: "... Nhưng cần nói rõ, Joseph Huỳnh Văn là một nghệ sĩ thứ thiệt! 'Cách mạng'của đời thực và trong thơ ca có thể là biểu tượng của cái đẹp. Nguyễn Miên Thảo sau ngày 30-4 từ một căn cứ cách mạng trở về, xuất hiện tại nhà tôi trong bộ bà ba đen. Lập tức nhà thơ Nguyễn Đức Sơn tới mò quanh bụng xem thử có dắt cây súng lục không. Ngay sau ngày 30-4, Joseph Huỳnh Văn đi làm thợ mộc. Trong nghề mộc, anh lại chỉ chuyên phần đánh vec-ni trên mặt gỗ. Những đường vân từ cây có khi lại đẹp hon chữ nghĩa, mỗi loại gỗ phải đánh theo một cách để vân lộ ra hơn hay ẩn giấu.
Anh mất tháng 2-1995. Khi đó chiếc đi-văng có hộc làm chỗ đựng đồ mà năm 1981 anh chở tói tận nhà cho, khi tôi tay trắng về lại Sài Gòn kiếm sống, vẫn chưa phai lớp vec-ni ban đầu".
Dòng chảy 21 năm văn học miền Nam có thể sẽ được đào xới lên theo nhiều kiểu cách. Một nhà khoa học Sinh học chăm bẵm vào các đề tài nghiên cứu, khi nhìn thấy các món sinh vật cảnh này quả quyết qua tháng năm, nó tích tụ nhiều chất phóng xạ; có loại đem chưng trong nhà sẽ rất độc hại. Cách nhìn duy vật thô sơ vẫn xem gỗ và đá là những loài vô cơ. Cách nhìn mới cho rằng trong đó sự sống vẫn dịch chuyển. Có khi nó chứa đựng cả phần hồn! Thật vậy chăng? (Gỗ và Đá).
Chu Ngạn Thư, khi viết cảm nhận về tập sách này, đã có lời đầu tiên như sau “Võ Chân Cửu, tôi rất cảm ơn vì Bạn đã cho tôi uống lại một vò rượu quí mà hôm nay đã gần tuyệt tích”.
Hoặc Cao Huy Khanh đã thốt lên: “Hãy trao cho thi sĩ một vòng hoa”