Rồi Nắng Mưa Sẽ Ở Lại Bên Đời
Năm cũ đôi khi như một nỗi niềm quá viễn. Em nhìn thấy ở nó thương yêu, hờn giận, cả những khi vui buồn. Em cũng nhìn thấy nó sự xấu xa và gớm ghiếc. Hoặc tràn trề tin yêu. Bằng cách nào chăng nữa, thì năm cũ cũng đã qua. Tựa như chiếc áo được em cất vào trong tủ. Rằng mình sẽ chẳng bao giờ mặc lại nó một lần nữa. Nhưng cũng chẳng nỡ cho đi. Vì từ chiếc áo ấy, em sẽ tự tin chọn cho mình chiếc áo mới, nhiều tin yêu và trong sáng hơn. Bởi dù có qua bao nhiêu sóng gió hay khó khăn, thì đến tận cùng, rồi nắng mưa nào cũng sẽ dừng lại bên đời.
Trích đoạn
Tạ Hiện. Góc của những chuyện kể.
Anh nhớ em.
Từ lâu, anh chọn góc phố ấy như một điểm dừng chân lý tưởng của mình. Đủ ồn ào để không thấy mình lạc lõng, đủ xô bồ để càng ý thức được việc giữ mình bình yên, đủ sôi động để khuấy tan cái buồn tẻ nhàm chán, và đủ tha thiết để giữ chân vài người mình còn yêu mến trong đời, giữ họ ngồi cạnh bên, lâu như là mình có thể. Nên có thể rất hiếm ai đó đưa Tạ Hiện vào thơ của mình, dù chỉ là những vần thơ nghiệp dư và còn nhiều gượng gạo.
Hôm nay, cũng như thế, anh ngồi với một người anh mà mình yêu mến. Vẫn là những câu chuyện cũ, về âm nhạc, về cách người ta loay hoay định vị mình trong một xã hội rối ren, về xuất phát điểm của mỗi người và cách chúng ta phải chấp nhận mọi điều thế nào. Thấy vừa thấm vừa đau xót em ạ! Hóa ra bọn anh ngồi cùng nhau ngần ấy năm rồi, mà giờ mới biết, mình có cùng xuất phát điểm, cùng hoàn cảnh như nhau, và cả những đau đáu mà người ta ngày càng mong những người trẻ độ hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi nghĩ đến ít thì càng tốt.
Có thể nơi ấy không thích hợp cho những mơ ước giàu sang, không phải chốn lý tưởng cho những buổi hẹn, không có ánh nến của lãng mạn và những bản tình ca du dương. Nhưng nơi ấy có bạn bè, có tiếng lách cách, tiếng cốc chạm vào nhau, tiếng dzô của những người đã say mèm và cả tiếng huyên náo của những cô gái Tây đã trót quá chén, hát váng lên những bài chẳng ra giai điệu gì. Và đó là cuộc sống anh mong đợi. Nơi chúng ta ít bị ràng buộc hơn về danh phận và thoải mái sống cho thật với cái mong muốn bản ngã của chính mình.
Nhưng rất lạ. Từ một chốn ồn ào như thế, anh nhớ em da diết. Và nghĩ thật may mắn vì mình đã tìm thấy nhau trong đời... Chỉ riêng điều ấy cũng đủ ý nghĩa, em ạ!
* * * * *
Nỗi buồn kẻ sĩ Bắc Hà
Cho Moa, và cho em
Tôi có một nỗi buồn. Một nỗi buồn ám ảnh mà tôi tin chắc sẽ đi theo suốt cuộc đời mình. Nó như một thứ tầm gửi đã ăn vào máu, hút tôi cho cạn kiệt. Nỗi buồn thường trực.
Ngày trước, đọc Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, cô giáo chỉ yêu cầu phân tích kĩ cảnh vật, nội tâm nhân vật thì chỉ điểm qua vài nét, chứ chưa nhắc đến nỗi buồn của nữ sĩ ấy.
Tôi đã qua đèo Ngang, đã đọc thơ, đã tìm hiểu sâu về cả một thế hệ như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến… mới thấy được cái nỗi buồn ám ảnh cả một thời đại đấy. Nỗi buồn khi kinh đô đã dời vào Phú Xuân, nỗi buồn khi dừng chân qua con đèo giao thời của hai miền lịch sử đấy mà bỗng nhiên muốn khóc. Vì Thăng Long kinh kỳ đã không còn là đất vua ở, đã chuyển giao quyền lực cho một nơi khác mất rồi.
Tôi đã khóc khi đọc cuốn sách về Đào Duy Từ. Một nhân tài hiếm có, chỉ vì cha mẹ làm nghề đào hát mà không được đi thi, đến nỗi phải bỏ xứ vào Đàng Trong phò tá chúa Nguyễn, mà hồn thì vẫn còn đau đáu đất Thăng Long.
Tôi đã đau đớn, không phải vì một nàng Kiều ít nhiều vay mượn từ Thanh Tâm tài nhân, mà vì chính cuộc đời nhiều bi kịch của Nguyễn Du, khi tư tưởng thiên mệnh vẫn còn đeo đuổi, khi con người vẫn còn lo “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, khi mà những người ưu tú vẫn cứ phải gánh chịu định mệnh mù lòa.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.
(Thăng Long thành hoài cổ - Bà Huyện Thanh Quan)
Tôi vẫn hằng tin, chỗ của Nguyễn Khuyến không phải là làng quê ao tù chiêm trũng nơi xứ Hà Nam quanh năm đói nghèo, chỗ của Hồ Xuân Hương không phải là một thân phận vợ lẽ hẩm hiu những đêm trống canh dồn. Tản Đà cũng vậy, sẽ không còn phải thốt lên: Tài cao phận thấp chí khí uất, Giang hồ mê chơi quên quê hương. Và một Cao Bá Quát mà tôi biết, con người “nhất sinh đê thủ bái mai hoa”, sẽ không hứng chịu cái chết trong thế làm phản.
Nhưng dù sao, họ cũng đã lựa được cách sống cho mình, dù thời đại rối ren ấy nó bạc đãi với kẻ sĩ quá. Đau đớn nào bằng khi tự ràng buộc mình vào tư tưởng trung quân báo quốc như dòng họ Ngô Thì, để rồi cuối cùng cũng phải dùng máu và nước mắt viết nên những trang sử chân thật, dù lòng đôi khi đã thấy phấp phới một hình bóng áo vải cờ đào. Tựu trung lại, họ là những người sinh nhầm thời đại. Nỗi buồn của họ giăng mắc khắp mảnh đất Thăng Long, mà bây giờ đã tròn nghìn năm tuổi.
Tôi là một hậu nhân của rất nhiều đời sau. Vậy mà nỗi buồn đấy đôi khi đã ngấm vào tôi như người từ hai, ba thế kỷ trước. Nhiều khi, nỗi buồn của tôi hiển hiện, bạn bè có hỏi lại chối đây đẩy, sợ rằng có ai hiểu được đâu. Có ai chia sẻ được sở thích lê la quán cóc, lượn phố chụp ảnh, đi uống trà, café Nghĩa buổi sớm, chiều ngắm hoàng hôn bên Hồ Tây đâu? Và cả những sáng thức giấc thật sớm để ngắm thành phố đang chuyển mình. Tôi nghĩ quỹ thời gian mỗi người là như nhau, thậm chí mình còn bận bịu hơn khối đứa, mà sao ít ai chịu dành thời gian để mua sự yên bình hiện hữu gần gũi đến thế.
Tôi tình nguyện chung thân với nỗi buồn của mình. Vì hình như trong dòng máu và dòng suy nghĩ, cũng chảy ít nhiều khí chất của một kẻ sĩ Bắc Hà.
* * * * *
Nỗi buồn kẻ sĩ
Cho Việt Anh (Moa)
Chỉ là chút lời, tiếng nói tâm tưởng bắt đầu vang lên, khi đọc những dòng em viết.
Nỗi buồn kẻ sĩ...
Những từ ấy đẹp và buồn như một gian miếu cổ.
Gian miếu ấy dù tiều tụy nhưng vẫn còn chút thiêng liêng của thời cũ, mà những kẻ có học hoặc có lòng đều ngưỡng vọng. Moa không nằm ngoài số ấy.
Nhưng nỗi buồn ấy thực chất là điều gì? Là một kẻ trung dung, Moa không dám chắc nó đúng với em, nhưng với Moa, nỗi buồn mênh mang và cao quý ấy, nó như đám hương vương lại sau khi đốt nhang.
Đó là sự bất bình và bất lực.
Kẻ sĩ Bắc Hà, là ai?
Là những con người tài hoa và tài tình, những con người màu trái tim như nước sông Hồng, những con người sinh ra không phải để sống trong một khung cửa mà là để đạp bằng khung cửa, vươn khát vọng bay xa để xây dựng một triều đại, với lý tưởng là phò vua giúp nước.
Nỗi buồn kẻ sĩ ấy bề ngoài nghe lãng mạn, nhưng bên trong là chất chứa, bề ngoài nghe ngang tàng, nhưng bên trong là bất lực. Triết học Trung Hoa nói: “Khi bất lực, con người ta sẽ buồn”... liệu có phải triết học bao giờ cũng đúng?
Vậy họ buồn cái gì? Họ đúng là buồn cái biến thiên không thể ngăn trở. Họ buồn vì đúng là thời gian không tuần hoàn, mà thời gian là một đường thẳng, nó không đem họ về cái xưa cũ, cái “hồn thu thảo”, “bóng tịch dương”... nhưng họ còn buồn nữa, là cái buồn không lối thoát, cái buồn tài hoa, cái buồn tình...
Tất cả trở thành nỗi buồn kẻ sĩ... nhưng mà con người ai chẳng từng đấy nỗi buồn… chỉ là càng hiểu biết nhiều về thời đại, càng thông tỏ bản thân, họ càng thấm thía cái buồn ấy và càng mơ hồ về con người và thời thế.
Thế ngày nay còn không?
Còn, vì thời nào cũng còn người có tâm.
Xót lòng không em khi nhìn một thằng con đánh mẹ?
Đau khổ không em khi nhìn một đứa trẻ đi hoang vì bố nó đi tù và mẹ nó làm đĩ?
Xót xa không em khi những khuôn mặt non tơ kia giật từng cơn vì nghiện?
Mệt mỏi không em vì thanh niên đạp đổ hoa đào Nhật Bản và hình ảnh người Việt bị xấu đi trong mắt bạn bè quốc tế.
Tức giận không em khi cảnh sát dùng dùi cui đánh dân và bác sĩ thì giết người...
Nhưng cũng thương cảm không em?
Moa đi học để làm gì?
Em đi học để làm gì?
Chúng ta sống vì cái gì?
Cái gì mới và cái gì đúng?
Kẻ sĩ buồn... và nếu em buồn, em cũng là kẻ sĩ... Bắc Hà đâu chỉ đại diện cho tài hoa... nó còn đại điện cho một thế hệ oai hùng bốn phương ngưỡng mộ... Bắc Hà đâu chỉ là ca nữ thường tình và văn vật tràn trề... nó còn đại điện cho một mảnh đất rồng chầu nhưng bây giờ nghèo quá...