Tình bạn bị đặt dưới một lợi ích cao hơn tình bạn thì không còn gì đáng gọi là tình bạn.
Thời chúng ta, người ta đã học được cách đặt tình bạn xuống dưới cái gọi là những xác tín. Và thậm chí còn tự hào về một sự thẳng băng đạo đức. Quả thật cần hết sức trưởng thành thì mới hiểu được rằng quan điểm mà chúng ta bảo vệ chỉ là giả thuyết được ta ưa thích, tất yếu không hoàn thiện, chắc chắn là nhất thời, mà chỉ những kẻ rất thiển cận mới có thể coi là một điều xác thực hay là một chân lý. Ngược với sự trung thành ấu trĩ với một xác tín, sự trung thành với một người bạn là một đức hạnh, có thể là đức hạnh duy nhất, đức hạnh cuối cùng.
Tôi nhìn tấm ảnh René Char đứng cạnh Heidegger. Một người được tôn sùng là chiến sĩ chống quân Đức chiếm đóng. Người kia bị chê bai vì có cảm tình, một lúc nào đó, với chủ nghĩa phát-xít mới nhóm lên. Bức ảnh chụp những năm sau chiến tranh. Ta nhìn thấy họ từ sau lưng; chiếc mũ lưỡi trai trên đầu, một người cao lớn, người kia nhỏ bé, họ bước đi giữa thiên nhiên. Tôi rất yêu bức ảnh ấy.
Về tác giả
Milan Kundera - nửa cuộc đời đầu tiên Kundera sống ở Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Czech), nửa còn lại ông sống cùng vợ ở Pháp. Hiện nay ông được coi là “nhà văn Pháp gốc Czech”. Ông đã xem lại hết sức kỹ càng bản dịch tiếng Pháp của bảy tiểu thuyết đầu tiên, ngày nay ông coi chúng là bản chuẩn và yêu cầu các dịch giả sử dụng chúng. Đó là các tiểu thuyết La Plaisanterie (Chuyện đùa, 1965), Risibles amours (Những mối tình nực cười, 1968), La vie est ailleurs(Cuộc sống không ở đây, 1969), La valse aux adieux (Điệu valse giã từ, 1970), Le livre du rire et de l’oubli (Sách cười và lãng quên, 1979), L’insoutenable légèreté de l’être (Sự nhẹ không thể chịu đựng của tồn tại, 1982),L’Immortalité (Sự bất tử, 1997).
Các tiểu thuyết tiếp theo ông viết trực tiếp từ tiếng Pháp: La Lenteur (Chậm rãi, 1995), L’Identité (Bản nguyên, 1997), L’Ignorance (Ngu dốt, 1999). Rút lui khỏi cuộc sống công cộng, ông tự coi mình là “một tiểu thuyết gia và chỉ là một tiểu thuyết gia”.
Bốn tập tiểu luận sau đây cũng đóng góp cho nghệ thuật tiểu thuyết và thi pháp tiểu thuyết riêng của ông: L’art du roman (Nghệ thuật tiểu thuyết, 1986), Les testaments trahis (Các di chúc bị phản bội, 1993), Le rideau (Tấm riđô, 2005), Une rencontre (Một cuộc gặp, 2009).
Ngay cả vở kịch duy nhất của ông cũng gắn liền với nghệ thuật tiểu thuyết : Jacques et son maître hommage à Denis Diderot en trois actes (Jacques và ông chủ kịch ba màn dành để vinh danh Denis Diderot, 1971), một biến tấu kịch nghệ của cuốn tiểu thuyết mà ông yêu quý: Jacques le fataliste (Jacques anh chàng theo thuyết định mệnh).
Tất cả sách của Kundera đều đã được dịch sang mọi thứ tiếng châu Âu và nhiều thứ tiếng châu Á.