Tóm tắt nội dung:
Chế Lan Viên với tôi ra Việt Bắc được gặp anh Nam Cao, chỉ gặp anh một lần đó thôi và không bao giờ gặp lại nữa. Tôi không nghĩ con người ấy, nhà văn ấy đã viết nên những trang văn như thế.
Khi chúng tôi ra Việt Bắc năm 1951, tôi chưa đọc hết văn của anh. Những ngày đó tôi được thấy anh và gặp anh cùng với Tô Hoài thỉnh thoảng ra viết ở ngoài lán trong rừng. Bấy giờ cơ quan Hội Văn nghệ ở cây số 7 đường Tuyên Quang – Hà Giang. Quyển nhật ký của Nam Cao với những mảnh đạn xuyên thủng ở Bắc Sơn, hôm hai anh bị trận máy bay bắn ở Vũ Lăng, Tô Hoài vẫn đang giữ.
Anh tên thật là Trần Hữu Tri, nhưng tôi thì tôi vẫn chỉ nhớ một tên: Nam Cao.
Mới ngoài ba mươi tuổi anh đã mất, anh đã hy sinh vì Tổ quốc. Nói cho rõ hơn, sau một cuốn tiểu thuyết viết chưa đạt, anh đã về quê trong địch hậu để tìm lại những nhân vật mới và cũ để viết cho thật đúng và thật hay, khi đi qua cánh đồng chiêm trũng bị giặc Pháp bắt được và đưa lên bờ mới bắn chết. Anh giữ lòng trung kiên của một người cộng sản.
Tôi cũng đã từng đi qua cánh đồng chiêm trũng của Hà Nam Phủ Lý. Lúc đầu thì còn lội được đến ngang ngực mặc dầu trời rét như cắt ruột nhưng sau phải đi thuyền mủng vì sâu quá và lần đầu tiên tôi được ngồi trên thuyền được chèo bằng chân. Tôi không biết anh Nam Cao bị bắt là khi anh đang lội giữa cánh đồng chiêm trũng, hay anh đang ngồi trên thuyền? Và không biết tên lính com-măng-đô đã bắn anh có phải là một Chí Phèo không? Tôi được quen anh có một lần, nhưng là một lần đáng ghi nhớ. Gia đình anh theo đạo Thiên Chúa. Ngày hòa bình lập lại, Tô Hoài, Chế Lan Viên và tôi (có lẽ cả Kim Lân) đã về ăn giỗ anh ở quê nhà Đại Hoàng (Lý Nhân). Lúc bấy giờ còn có cả ông cụ.
Nam Cao đến Hà Nội rất sớm. Anh dạy học, gặp Tô Hoài, trở thành đôi bạn tri kỷ và sau cùng anh làm nghề văn.
Nam Cao viết rất nhiều nhưng đặc sắc nhất là truyện Đôi lứa xứng đôi (tên do nhà xuất bản đặt), tên của anh đặt là Cái lò gạch cũ, sau này anh đổi là Chí Phèo. Nếu như Xecvăntet, nhà văn Tây Ban Nha viết về Đôngkysốt người đánh nhau với cối xay gió thì Lỗ Tấn viết về AQ, một anh chàng với “sức mạnh tinh thần” tự nghĩ “thắng lợi” một cách hư ảo.
Còn Nam Cao thì trước Cách mạng đã tạo ra một Chí Phèo ngật ngà ngật ngưỡng mượn rượu chửi đổng từ trên xuống dưới, đến chánh phó tổng, các hương lý trong làng, cả thực dân phong kiến quan lại và cả trời nữa!
Có một anh bạn tôi, bác sĩ chuyên về tâm thần học nói với tôi: Chí Phèo là nhân vật bị bệnh tâm thần. Còn Thị Nở thì là một cô gái bị mắc bệnh hủi, đêm đêm nằm vén tênh hênh và cười với trăng. Tôi tin vào vị bác sĩ đó nhưng có thể anh ấy có những méo mó về nghề nghiệp chăng? Tôi chưa đủ điều kiện để kết luận.
Một lần gặp Nam Cao là một lần gặp quý giá vì thôi thấy những người trung thực như anh trong văn học thật hiếm. Nam Cao là một tài năng lớn trong văn học. Anh đã viết nhiều tác phẩm kể cả trước Cách mạng và sau Cách mạng. Chao ôi! Người xưa nói: “Đi một chuyến đò còn nhớ nghĩa!”. Huống gì chúng tôi đã gặp nhau một lần. Thậm chí tôi còn về tận quê Nam Cao để thấy dòng sông Hoàng và vườn dâu xanh ngát.
Tôi biết ở Hải Phòng đã có đường phố mang tên Nguyên Hồng, thì ở Nam Định cũng nên có đường phố Nam Cao.
Nhắm mắt lại mà xem không phải Chí Phèo, Thị Nở mà có những nhân vật trong Nửa đêm, trong Sống mòn và còn biết bao nhân vật mòn mỏi trước kia trong rất nhiều truyện ngắn của anh nữa chứ. Nhưng tác phẩm và tên tuổi của anh thì không mòn bao giờ.
Đôi mắt, truyện ngắn của anh sau Cách mạng, năm 1948, khi anh ở Bắc Cạn, làm báo Cứu Quốc Việt Bắc với Tô Hoài, vừa là đôi mắt của anh, cũng chính là đôi mắt của chúng tôi nhìn rõ cuộc đời, nhìn rõ phải trái, nhìn rõ ánh sáng của Đảng và của nhân dân. Nguyễn Tuân đã nói “Đi và viết” thì Nam Cao nói trước hơn “Sống đã rồi hãy viết”, và anh đã sống như anh viết.
Con người gầy gầy, xương xương, đôi vai hơi còng xuống và nhất là đôi mắt sâu thẳm thâm quầng đầy day dứt. Anh luôn luôn đấu tranh với tự bản thân mình và tự phê bình mình. Khi chỉ có hai đứa tôi thôi, anh đã đọc một đoạn trong bút ký Đường vô Nam cho tôi nghe: “Cây bút của tôi bất lực. Nó không khạc ra lửa và đạn như cây sung. Nó ì ạch chạy theo phong trào mãi mà không kịp. Các bạn tôi cũng đều thấy na ná như tôi. Họ đều thấy rằng bàn tay họ nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về”.
Anh Nam Cao ơi! Phạm Văn Khoa đã dựng phim Làng Vũ Đại ngày ấy, trong đó Kim Lân đóng vai lão Hạc khá đạt. Tôi tin rằng cuốn phim đầu chưa đạt như ý muốn của anh nhưng vẫn là một cuốn phin gây ấn tượng mạnh mẽ. Chí Phèo là ai? Lão Hạc, giáo Thứ người “sống mòn” là ai? Cũng là một anh thôi, thế mà thể hiện ba nhân vật ấy trong một con người, khó quá. Tôi nghĩ rằng người đạo diễn điện ảnh rất khó khăn và một người viết văn khó tính lại hay dằn vặt như anh chắc cũng chưa hài lòng lắm. Nhưng biết làm sao được! Ôi, ước gì tự tay anh chuyển thể từ tác phẩm văn học sang kịch bản điện ảnh thì cuốn phim sẽ khác đi nhiều.
Những đêm mưa tầm tã là những đêm mà Nam Cao thường hay viết nhất. Anh thao thức và đi đi lại lại, khi ngồi lúc đứng trông khổ sở lắm. Anh viết ra rồi gạch đi rồi lại viết ra. Những đêm mưa tầm tã ấy là những tiếng khóc của lòng anh khi nghĩ đến các anh Vệ quốc quân. “Ôi những anh Vệ quốc quân! Tôi biết các anh phải nhịn cơm ăn cháo, đứng dầm mưa suốt ngày suốt đêm mà đánh giặc. Lòng các anh cũng là lòng súng thép. Mưa có bao giờ ỉu xìu một tấm lòng bằng thép đã tôi già. Tôi xấu hổ cho tâm hồn ủy mị của tôi vẫn chưa mạnh hẳn? Các anh! Các anh chiến sĩ không tên! Các anh hãy dạy tôi biết hy sinh, biết chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ, chiến đấu không nghĩ gì đến tênmình, không nghĩ gì cả đến thân mình nữa”. Anh đã đọc một đoạn ký Ở rừng như vậy. Và khi gập bản thảo lại, anh chỉ tay về nơi xa xa, mắt bỗng sáng rực đầy mơ ước và nói: “Thông ạ, những nhà máy sau này sẽ mọc lên rất nhiều ở trên này”.
Có một lần ở Lêningrát, Tô Hoài mời tôi và Trần Mai Thiên, con của Nam Cao học ở đây (bây giờ là đốc tờ “chép” (phó tiến sĩ về cá) như cách nói của Nguyên Hồng) chúng tôi đi ăn ở một quán ăn đặc biệt về chả cừu. Tất nhiên là Tô Hoài trả tiền. Một bữa ăn thú vị. Nhưng thú vị hơn là câu nói của Mai Thiên: “Một bữa ăn này bằng chúng cháu ăn nửa tháng”.
Còn Nam Cao thì sao? Nam Cao là người rất tỉnh. Nhưng có lúc Nam Cao cũng say. Ai đã từng uống rượu với Nam Cao thì mới biết hết tấm lòng của anh. Khi rượu bốc lên, anh cũng chửi văng mạng như Chí Phèo. Lúc đó, có lẽ mới thật là Nam Cao. Nhưng lúc đó, Nam Cao hóa Chí Phèo, hay Chí Phèo hóa Nam Cao?
Cái mặt không chơi được (tên một truyện ngắn của anh), tôi chỉ gặp mặt anh có một lần, nhưng mà chơi được.
(Người Hà Nội, 1978)
HOÀNG TRUNG THÔNG