* Nghiên cứu hậu thực dân ở Việt Nam: một nhu cầu thực tế hay một giả vấn đề? (Kỳ 1)
* Nghiên cứu hậu thực dân ở Việt Nam: một nhu cầu thực tế hay một giả vấn đề? (Kỳ 2)
* Nghiên cứu hậu thực dân ở Việt Nam: một nhu cầu thực tế hay một giả vấn đề? (Kỳ 3)
Trong khi nhiều quốc gia - dân tộc phải loay hoay tìm con đường phát triển, thoát khỏi “cái bóng” của chủ nghĩa thực dân, thì không chờ đến Tuyên ngôn về thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa thực dân của LHQ, dân tộc Việt Nam đã đấu tranh để tự giành lại độc lập từ năm 1945. Tình thế lịch sử đó cấp cho người Việt Nam một tư cách riêng, vì thế từ sau năm 1945 đến nay, chưa bao giờ người Việt Nam tự xem mình là “kẻ bại trận”, còn “tâm lý thuộc địa” có lẽ chỉ là ý nghĩ mơ hồ trong một số người. Và cần nhấn mạnh ở Việt Nam, các tiêu chí cơ bản để xây dựng xã hội mới đã được xác định từ trước khi giành được độc lập, thậm chí hệ thống giá trị của nền văn hóa mới đã được xác định từ năm 1943 qua Đề cương văn hóa Việt Nam. Bối cảnh chính trị - xã hội - văn hóa đặc thù này thể hiện rất cụ thể qua việc các nhà nghiên cứu thường bàn về hai giai đoạn trong sự nghiệp sáng tác của một số nghệ sĩ đã thành danh từ thời Pháp thuộc: Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyên Hồng, Nam Cao, Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân,… theo phân kỳ: trước Cách mạng tháng Tám, và sau Cách mạng tháng Tám. Tất nhiên, thoát khỏi “cái bóng” của chủ nghĩa thực dân sẽ không thể diễn ra trong một sớm một chiều, nhưng khi ông toàn quyền, ông sứ đã vắng bóng; khi cái thời Hoài Thanh viết: “Chúng ta ở nhà tây, đội mũ tây, đi giày tây, mặc áo tây” hầu như chỉ còn là chuyện của quá khứ thì đến hôm nay, điều nhắc nhở người Việt nhớ tới thời thực dân có lẽ chỉ còn là một số công trình kiến trúc ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, một số nhân vật trong Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Sống mãi với Thủ đô và Lũy hoa (Nguyễn Huy Tưởng),… Thế hệ đương đại biết về thời “Pháp thuộc, Mỹ thuộc” chủ yếu qua sách báo, phim ảnh, qua lời kể của số người ít ỏi còn lại từ thế hệ trước. Bên cạnh đó, liệu có thể coi tâm lý nhược tiểu, thói vọng ngoại là hậu quả của chủ nghĩa thực dân? Khó có thể kết luận như vậy khi từ rất sớm, người Việt Nam đã tiếp xúc với những nền văn hóa - văn minh phát triển hơn, như văn hóa - văn minh Trung Hoa, hay Ấn Độ. Điều đáng nói là tâm lý và thói ấy chưa bao giờ thống trị trong nhận thức chung của xã hội.
Sau khi giành lại độc lập, dù phải trải qua hai cuộc kháng chiến và trong thời đoạn nhất định vẫn còn một bộ phận dân cư chịu sự đô hộ thực dân (nơi thực dân Pháp quản lý từ năm 1946 đến 1954, nơi chính quyền Sài Gòn quản lý từ năm 1954 đến năm 1975) thì về nguyên tắc, chế độ người bóc lột người đã bị xóa bỏ ở Việt Nam. Vì vậy, nếu hiểu các khái niệm “bên lề, ngoại vi” như G.J. Watkins viết: “Sự hiểu thấu về vị trí bên lề như là lập trường, không gian của sự kháng cự là điều đặc biệt quan trọng đối với những người bị áp bức, bóc lột, chịu ách thực dân. Nếu ta chỉ nhìn “lề” như một ký hiệu, đánh dấu hoàn cảnh khổ đau và bị tước đoạt của chúng ta, thì một nỗi vô vọng, tuyệt vọng, một thứ hư vô chủ nghĩa sâu sắc sẽ xuyên thấm vào chính nền tảng của sự tồn tại của chúng ta theo một cách thức hủy hoại. Chính ở đó, trong không gian của sự tuyệt vọng tập thể, sự sáng tạo, sức tưởng tượng của con người bị lâm nguy, nhận thức của con người sẽ bị thực dân hóa trọn vẹn, thứ tự do mà con người mong mỏi sẽ bị đánh mất. Thực sự, cái ý thức kháng cự lại sự thực dân hóa luôn đấu tranh cho sự tự do biểu hiện. Cuộc đấu tranh ấy, thậm chí, có thể không bắt đầu với kẻ thực dân mà bắt đầu ngay từ bên trong không gian bị cô lập của cộng đồng và gia đình của mỗi người. Tôi muốn lưu ý rằng tôi không cố gắng khắc họa lại một cách lãng mạn ý niệm về không gian ngoại vi, nơi những kẻ bị đàn áp sống tách khỏi những những kẻ áp bức mình, như một không gian “thuần khiết”. Tôi muốn nói rằng những không gian ngoại vi này một mặt, vừa có tính chất của một không gian trấn áp, mặt khác, vừa có tính chất của một không gian phản kháng. Và vì chúng ta có thể dễ gọi được bản chất của sự trấn áp nên chúng ta thường hiểu ngoại vi như là không gian của sự tước đoạt. Chúng ta thường im lặng hơn khi nói ngoại vi như là không gian của sự kháng cự. Chúng ta thường bị buộc phải im lặng khi cần phải nói về ngoại vi như không gian của sự kháng cự” (15) , thì các khái niệm này hoàn toàn không dính dáng gì với thực tế chính trị - xã hội - văn hóa ở Việt Nam sau khi giành lại nền độc lập từ tay thực dân Pháp. Hơn nửa thế kỷ qua ở Việt Nam không có tình trạng người “bị áp bức, bóc lột, chịu ách thực dân”, càng không có “không gian ngoại vi, nơi những kẻ bị đàn áp sống tách khỏi những những kẻ áp bức mình”! Phải chăng, đó chính là một lý do cơ bản mà các tác giả của chủ nghĩa hậu thực dân hầu như không nhắc tới trường hợp Việt Nam? Nên, liệu có thể coi việc nghiên cứu cái gọi là “bên lề, ngoại vi”, xu hướng “ngoại vi hóa” trong văn học Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn? Xét từ quan niệm của Chủ nghĩa hậu thực dân về “kẻ bên lề” và “vị trí của kẻ bên lề” (ý kiến của G.J. Watkins dẫn ở trên) cần khẳng định, đó là các khái niệm chỉ phù hợp với bối cảnh đâu đó ngoài Việt Nam và vì ở Việt Nam không có cơ sở chính trị - kinh tế - văn hóa để có thể khái quát các khái niệm này, nên việc du nhập, sử dụng làm công cụ lý thuyết là việc cần cân nhắc; bởi nếu không, sẽ đẩy công trình nghiên cứu tới những kết luận hư vô!
6. Vị trí xã hội của những người có cha ông từng bị thực dân áp bức và sau khi quốc gia - dân tộc giành được độc lập họ vẫn bị áp bức là hoàn toàn khác biệt so với vị trí xã hội của những người có cha ông từng bị thực dân áp bức và nay, sau khi quốc gia - dân tộc giành được độc lập, họ đã có vị trí của người làm chủ. Đó là vấn đề phải nghiên cứu cụ thể, để không đánh đồng các tình thế, bối cảnh chính trị xã hội - văn hóa và con người khác nhau về bản chất. Yêu cầu khách quan của việc nghiên cứu đòi hỏi phải xem xét như vậy để phân biệt tình thế, bối cảnh chính trị - xã hội - văn hóa và con người mang chứa các yếu tố làm cho sự ra đời của các cá nhân, những nhóm “bên lề, ngoại biên”, có xu hướng “ngoại biên hóa”, có nhu cầu “giải trung tâm”,… là tất yếu; với tình thế, bối cảnh chính trị - xã hội - văn hóa và con người mà ở đó, việc tạo dựng một xã hội bình đẳng, đem lợi ích mọi mặt đến với công dân, tạo điều kiện để công dân phát triển,… là mục đích; và vì thế, sự xuất hiện một số hiện tượng đi ra ngoài (thậm chí đi ngược lại) mục đích đó không phải là tất yếu, càng không phải là hiện tượng mang tính bản chất.
Tuy nhiên với các liên hệ văn hóa nội tại và tác động, ảnh hưởng của các liên hệ ấy trong diễn trình văn hóa ở một quốc gia - dân tộc, dẫu không bị cưỡng bức, không bị áp đặt, thì hiện tượng văn hóa của các dân tộc thiểu số, của các nhóm xã hội (từ lớp tuổi đến giới tính, nghề nghiệp,…) hướng về văn hóa của tộc chủ thể, về văn hóa của cộng đồng lớn luôn là xu hướng khó tránh khỏi. Đó không chỉ là giao lưu, mà còn là tiếp biến để học hỏi, làm phong phú văn hóa của chính mình. Thống nhất trong đa dạng là xu hướng phát triển tất yếu của mọi nền văn hóa được cấu thành từ nhiều bộ phận, nhiều vùng, nhiều “nền văn hóa nhỏ”. Một cách tự giác và cả tự phát, thành viên của các dân tộc thiểu số thường cố gắng khai thác từ tộc chủ thể, từ văn hóa chủ đạo các giá trị phù hợp với mình để phát triển. Ở Việt Nam, có thể nhận biết tình thế này qua các biến động ngôn ngữ, trang phục, sự hòa nhập của một bộ phận dân tộc thiểu số vào lối sống, cuộc sống của người Việt, vào sinh hoạt đô thị. Thời thực dân, do chính sách “chia để trị”, các dân tộc thiểu số bị “ngoại vi hóa”. Họ không được tạo điều kiện phát triển, thậm chí bị kỳ thị. Ngày nay họ đã không ở “ngoại vi” nữa. Họ có vị trí, vai trò xã hội bình đẳng với các dân tộc khác. Họ có tư cách người làm chủ. Họ không có “không gian của sự tuyệt vọng tập thể”, họ không thấy “bị lâm nguy” (vì chẳng có điều gì làm họ thấy bị lâm nguy!) nên họ không cần đến ý thức về sự “kháng cự”. Trong quá trình học hỏi để phát triển, họ không có nhu cầu “ngoại vi hóa” để tồn tại, và càng không có nhu cầu “giải trung tâm”, khi mà chính trung tâm đã và đang đem tới cho họ nhiều lợi ích.
Nhưng, quá trình hòa nhập của một dân tộc thiểu số nào đó vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam có thể dẫn tới nguy cơ hòa tan, phai nhạt, thậm chí đánh mất bản sắc. Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới hiện tượng trong xã hội vẫn có một số người tiếp tục nối dài thái độ tự thị của tộc chủ thể, tự coi mình có trình độ văn minh cao hơn. Tuy nhiên, khi thế hệ trẻ của các dân tộc thiểu số có điều kiện được học hành, phát triển tương tự như người của tộc chủ thể, có thể xuất hiện khả năng xa rời nguồn gốc. Nhà nước Việt Nam đã dự liệu về khả năng này, nên đã triển khai nhiều chính sách, biện pháp giúp các dân tộc thiểu số vừa phát triển, vừa giữ gìn bản sắc văn hóa riêng. Nhưng khi xu hướng nói tiếng Việt, tiếp nhận các giá trị văn hóa, sử dụng trang phục, tổ chức cuộc sống,… tương tự như người miền xuôi ngày càng phổ biến thì thực tế cũng đặt ra bài toán khó tìm lời giải. Trong văn học cũng vậy, nếu các tác giả như Y Phương, Pờ Sào Mìn, Mã A Lềnh,… kế tục xuất sắc sự nghiệp của Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn,… thì ngày nay, đọc tác phẩm của một số cây bút trẻ, ngoài họ và tên hay đôi dòng tiểu sử giúp nhận biết xuất thân dân tộc thiểu số, lại thấy cách cảm, cách nghĩ, lối diễn đạt, cách thức xây dựng hình ảnh,… trong thơ của họ có điều gì đó gần gũi với cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt, cách xây dựng hình ảnh, giọng điệu… trong thơ của tác giả người Kinh! Và ai từng tiếp xúc với lễ hội của người Mông cách đây vài chục năm rồi tiếp xúc với Tết Độc lập của người Mông ở Mộc Châu - Sơn La gần đây sẽ thấy nhiều biến đổi. Các chàng trai, cô gái Mông đến dự lễ hội với vẻ chững chạc, tự tin, không nhút nhát, e dè như cha anh họ ngày trước. Nhưng những đôi “bốt” cao cổ, những mái tóc nhuộm vàng hoe để dài vắt sang một bên như “tài tử Hàn Quốc”, những chiếc áo “phông” có in hình xanh đỏ, những chiếc điện thoại đắt tiền, máy tính xách tay, balô đính con thú nhồi bông nho nhỏ đeo trên lưng,… của họ lại khiến không khỏi liên tưởng tới sự mai một của bản sắc!?
Xây dựng, phát triển xã hội trong các điều kiện riêng và để vượt qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, Việt Nam phải triển khai nhiều biện pháp chính trị - kinh tế - văn hóa không dễ đáp ứng nhu cầu toàn bộ, càng khó có thể đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng cá nhân riêng rẽ. Sau năm 1975, tình hình còn phức tạp hơn, không chỉ có các hạn chế đã tồn tại, Việt Nam còn phải khắc phục hậu quả của chiến tranh, rồi vệt kéo dài của thói quen thời chiến, đặc biệt là nền kinh tế kém phát triển và các thách thức đến từ quá trình hội nhập với thế giới,… Vì thế sẽ dễ nảy sinh một số xu hướng tinh thần đi ra ngoài khuynh hướng chủ đạo. Tuy nhiên, khi đặt ra vấn đề nghiên cứu một xu hướng tinh thần như vậy trong văn hóa, văn học, ngoài yêu cầu phải xem xét một cách cụ thể, mà trước hết cần trả lời câu hỏi: Đó có phải là tất yếu khách quan, có phải là đối tượng cần nghiên cứu, kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp gì với sự phát triển văn hóa, văn học? Từ việc một số tác giả coi sản phẩm được gọi là “thơ” của một số người như là phương tiện biểu thị thái độ “phản kháng”, là sự bày tỏ “cái khác” hơn là biểu thị thẩm mỹ,… có thể khẳng định việc đặt vấn đề như vậy chỉ để thỏa mãn mục đích cá nhân người nghiên cứu hơn là đi tìm giá trị tư tưởng - thẩm mỹ có sức lan tỏa, xuyên thấm. Dù thế nào cũng không thể coi ngôn từ bậy bạ, tục tĩu, thô lậu là biểu hiện của văn hóa. Càng không thể coi đó là biểu thị của xu hướng “ngoại biên hóa”, sẽ trở thành “trung tâm”. Chắc chắn không ai có thể quả quyết một ngày nào đó, thứ “thơ” ấy lại giữ vị trí ưu thắng trên văn đàn. Hơn nữa với các tác giả “làm thơ” này, không ai áp bức, bóc lột họ, không có “ông chủ thực dân” nào tước đoạt quyền sống và quyền mưu sinh của họ. Họ được học hành, được thiết lập các quan hệ xã hội,… Xã hội không đẩy họ ra “bên lề” mà tạo cơ hội để họ phát triển. Tựu chung, họ được hưởng quyền công dân, họ đã và đang có tư cách xã hội bình đẳng với mọi người. Không bị đẩy ra “bên lề”, nhưng họ đã tự đi ra ngoài hệ thống tiêu chí văn hóa chung của cộng đồng. Nên cái vị trí gọi là “ngoại vi” mà mấy nhà nghiên cứu bằng trí tưởng tượng bay bổng hình dung ra và gán cho họ, không phải là hiện tượng tinh thần tất yếu của tiến trình xã hội - văn hóa. Việc công nhận hay phủ nhận sản phẩm của họ phụ thuộc vào sự đánh giá của xã hội, vào khả năng có thể gia nhập, trở thành giá trị văn hóa của cộng đồng hay không, chứ không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ người nghiên cứu nào.
Ai đó có thể phản biện: khái niệm ngoại vi - trung tâm được họ sử dụng là có nguồn gốc từ lý thuyết của Bakhtine và Chủ nghĩa hình thức Nga, không phải từ Chủ nghĩa hậu thực dân. Phản biện như vậy, một mặt chính là chỉ ra tính chất chưa hoàn chỉnh của Chủ nghĩa hậu thực dân, khi nó phải vay mượn một số khái niệm từ lý thuyết khác. Mặt khác, phản biện như thế cũng nên lưu ý việc “phong thánh” cho các thể loại nhỏ, đưa những thể loại ở ngoại vi vào trung tâm không phải là tất yếu khách quan. Tiến trình văn học cho thấy không phải ngoại vi nào rồi cũng trở thành trung tâm, bởi chí ít còn phải trải qua quá trình sàng lọc về mặt thẩm mỹ. Mới đây thôi, một số nhà phê bình văn học ở Việt Nam xúm xít tán dương văn học Linglei ở bên Trung Hoa, sau đó tiếp sức cho Búp bê Bắc Kinh, Điên cuồng như Vệ Tuệ, Quạ đen, Người đàn bà “quậy”,… đứng san sát trong nhiều cửa hàng sách. Rồi tới khi Linglei nhạt trò ở chính nơi sinh ra, mấy nhà phê bình văn học ấy cũng không còn thấy múa bút. Lại thấy bên Trung Hoa người ta xuất bản truyện ngôn tình thì không chỉ thi nhau dịch và cho ra đời Em đồng ý gọi anh là chồng, Dựa vào hơi ấm của em, Nếu em là truyền thuyết của anh, Ly hôn 365 lần,… mà văn sĩ nước Nam cũng sản xuất Coiktail tình yêu, Phải lấy người như anh, Bạch mã hoàng tử, Xu Xu đừng khóc, Đài các tiểu thư, Lãng tử gió, Người xa lạ và em, Giám đốc và em, Hoàng tử và em,... Rộn rã như vậy, nhưng chắc chắn các thể loại như Linglei, ngôn tình vẫn mãi mãi chỉ ở ngoại vi, không thể gia nhập trung tâm, không được ghi nhận như là thành tựu để có một vị trí (dù nhỏ) trong lịch sử văn học!
Có thể sẽ có người biện minh, các khái niệm trung tâm - ngoại vi là thuộc về Văn hóa học, xin nói luôn, đó là việc hoàn toàn khác. Xin dẫn lại phân tích của Ngô Đức Thịnh về quan hệ trung tâm - ngoại vi từ Văn hóa học: “Đặc trưng cơ bản của trung tâm văn hóa là thu hút, tích hợp, lên khuôn và lan tỏa. Do vị trí địa lí, kinh tế, chính trị và xã hội mà trung tâm bao giờ cũng có sức thu hút và tích hợp cao các nhân tố văn hóa từ ngoại vi, đó là chức năng “tụ nhân, tụ tài” của trung tâm. Tuy nhiên, khi các nhân tố văn hóa được tích hợp, thu hút vào trung tâm thì trên cái nền tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội luôn sống động đó, các nhân tố văn hóa được nhào nặn, tái cấu trúc hóa và lên khuôn, tạo nên sản phẩm văn hóa thường mang tính định hình cao. Từ các sản phẩm văn hóa được lên khuôn như vậy và với động năng của trung tâm, văn hóa từ trung tâm lại lan tỏa, ảnh hưởng, lan truyền ra ngoại vi, góp phần, một mặt tạo nên sự thống nhất diện mạo văn hóa của vùng, mặt khác, trung tâm tạo ra sức định hướng trong sự biến đổi văn hóa của vùng. Hơn thế nữa, do giữ vị trí trung tâm, nó luôn là đầu mối giao lưu văn hóa không chỉ nội vùng, mà còn với văn hóa ngoài khu vực, là khâu trung gian chuyển tải các giao lưu văn hóa từ các trung tâm và khu vực văn hóa lớn hơn trên thế giới. Ngoại vi văn hóa không chỉ chịu sự tác động thu hút của trung tâm, cung cấp “nguyên liệu” văn hóa cho trung tâm, mà còn chịu ảnh hưởng, tiếp nhận sự lan tỏa văn hóa từ trung tâm. Do vậy, ngoại vi văn hóa bao giờ cũng tĩnh lặng, ít sôi động hơn so với trung tâm. Nhiều hiện tượng văn hóa khi lan tỏa tới ngoại vi thường bị “hóa thạch” và giữ lại các dạng thức nguyên thủy hơn so với trung tâm. Đó chính là hiện tượng “hóa thạch ngoại biên của văn hóa”… Như vậy, khác với các quan điểm truyền bá luận hay quan điểm trung tâm và ngoại vi của nhân học Mỹ, trung tâm và ngoại vi đều tham gia vào quá trình sáng tạo, lan truyền văn hóa. Đó là tác động qua lại đa chiều, không hoàn toàn thụ động một chiều như các nhà chủ nghĩa chủng tộc văn hóa chủ trương” (16) . Còn từ Nhân học Văn hóa, để nắm bắt bản chất quan hệ trung tâm - ngoại vi, lại cần tìm hiểu những nội dung liên quan như truyền bá luận, tích hợp văn hóa, vòng văn hóa, vùng văn hóa, cảnh quan văn hóa,… Nếu thấu triệt vấn đề, sẽ thấy những nội dung này không dính dáng với cách hiểu về trung tâm - ngoại vi của Chủ nghĩa hậu thực dân mà một số người đang quảng bá!
(Còn nữa)
NGUYỄN HÒA
---------------------------
15. bell hooks - G.J Watkins - Ngoại vi như là nơi kháng cự- Tài liệu đd.
16. Ngô Đức Thịnh - Lý thuyết “trung tâm và ngoại vi” trong nghiên cứu không gian văn hóa, Tạp chí Văn hóa dân gian số 1.2007.