Mục lục
- Bùa ngải quê nhà (Võ Diệu Thanh)
- Chuyến xe buýt cuối ngày (Nguyễn Thái Sơn)
- Diva xóm phố (Nguyễn Toàn Thắng)
- Khuất sau thời gian (Nguyễn Đức Thiện)
- Ngày mai sáng rỡ... (NiÊ Thanh Mai)
- Ngõ sâu (Hà Mạnh Tùng)
- Những người thầy (Nguyễn Trung)
- Noòng Xiêm (Quan Nam Trường Định)
- Ra phố (Du An)
- Sa trường (Vũ Trường Giang)
- Thành phố đi vằng (Nguyễn Thị Thu Huệ)
- Tháp trắng (Nguyễn Trần Thiên Lộc)
- Thi tuyển Khùng (Tạ Duy Anh)
- Thước phim đời người (Hồ Kiên Giang)
- Trăng trên thung lũng Seo Sảo (Trung Trung Đỉnh)
Trích đoạn Bùa ngải quê nhà
Chị quến ngải rồi. Chị bỏ ngải mê hoặc người nhưng chính chị lại bị nghiện. Chị ghiền nấu, ghiền nhìn khách lùa từng đũa bún, đang ăn trong miệng đã muốn lùa thêm miếng kế. Nhìn vậy mà no. Chị bán chỉ cầu cho những người ghiền bún có cái thỏa cơn ghiền. Mưa thì mặc áo mưa, che cái bếp bằng mấy tấm tole xoay tròn hình nón. Bún vẫn bốc khói dưới màn mưa tới cửa từng nhà. Nước lên thì chiếc xuồng tam bản nhỏ, nguyên cái quang gánh được đưa lên xuồng. Chị ngồi trên xuồng, nhìn người người ngồi cầu khỉ ăn bún mà no con mắt. Quanh họ nước lĩnh lãng, nước một màu, trắng sông trắng đồng. Ăn bún trên mặt nước, mùi nước lèo dường như đậm đà hơn.
Có lẽ mùa này cá nhiều, nhất là cá linh, thịt trắng ngọt thau miệng. Mùa này cá nấu chua, kho rệu, kho lạt dầm me, ăn lần một lần hai đã ngán. Chỉ có nấu bún nước lèo có thể ăn cành hông, no tới ớn luôn nhưng khi đói lại muốn trụng một tô lùa xì sụp. Cá linh mùa lũ nấu bún nước lèo có vị ngọt mùi thơm đủ sức níu chân người xa xứ.
Tôi lấy chồng xa, nhiều năm liền gần như không thể ăn sáng được vì kiếm nát nước cũng không khi nào thấy tô bún ở xóm Cây Dương. Gần xa chỗ tôi cũng có mấy bảng đề “bún cá”. Ghé vô, cũng sả nghệ ớt cắt khúc mà càng ăn càng thấy chơi vơi. Mấy miếng chả chiên, huyết luộc, tỏi phi rải trên mặt làm tô bún trở nên lạ hoắc. Ăn bún mà nhớ khát cổ những tô bún cọng nhỏ, được trụng qua ba bốn quận nước lèo của chị Tịm, từng cọng bún uống no cái mùi bay xa cả khúc đường. Như vậy mới đúng điệu bún Cây Dương. Đúng điệu mà rẻ. Mỗi lần nghĩ tới, mùi nước lèo dậy đầy mũi. Nó dậy từ trong nỗi nhớ. Mỗi lần về quê ăn bún tôi luôn húp phải cơn xốn xang của chính mình. Đó là khi bắt gặp những sợi tóc bạc của chị ngày càng dầy hơn, dáng chị ngày càng mỏng hơn so với gánh bún vẫn nặng trìu trịu trên vai.
Cưới vợ xong anh Hai ít về nhà. Mỗi lần về chơi chị Hai phải cụ bị theo nhiều thịt heo để sáng nấu miếng hủ tiếu cho chị và mấy đứa con. Ở đây gần người Chăm nên những món hủ tiếu, bánh canh giò heo bán không ai ăn, nên không ai bán. Bún nước lèo thì chị thua. Mỗi lần về cực vậy nên chị ngại về. Anh Hai nhớ ba thì lâu lâu về một mình, có khi rủ tôi cùng về. Lần nào vừa lên nhà anh cũng biểu tôi đi mua cho anh một bọc bún hai tô. Chị Tịm bán mỗi ngày hàng trăm tô bún, múc không biết bao nhiêu ớt, vậy mà mỗi lần cầm muỗng vớt ớt, rưới vô cái bọc bún no nưởng của tôi, chị lại run tay. Chị biết tôi mua cho ai. Tôi cũng thấy hơi thở mình run. Tình yêu qua những muỗng ớt, nó cay tan nát ruột gan mà chị nhớ chi nhớ miết. Quên như anh Hai có phải rảnh rang không.
Đúng là Anh Hai tôi quên được. Anh thảnh thơi, làm ăn khá giả lắm. Anh muốn ba lên sống với vợ chồng anh “giao thông thuận lợi, bệnh tật cũng dễ bề xoay trở”. Ở dưới quê còn cái gì nữa đâu mà nắm níu. Đất đai thì ba bán lần hồi lúc lo cho anh em tôi đi học, lúc mua một cái nền nhà nhỏ cho anh Hai cưới vợ... Chỉ còn gần hai công đất kế chòm mộ họ nội, ba đã bàn với tụi tôi để dành cho chị Tịm “đặng nó có cái dưỡng già”. Mồ mả ông bà ngày tết ngày thanh minh mới cần được dọn dẹp sửa sang... Vậy mà ba lắc đầu. “Đừng có biểu ba đi, để ba ở cái xóm này. Chừng nào ba hết biết gì ai đưa đi đâu cũng được”.