Một người đàn ông đang nói. Đó là một tiếng nói của một truyền thống tâm linh của hơn hai ngàn năm, chánh pháp mà Đức Phật đã giảng dạy.
Các môn đồ của Đức Ki Tô tụ họp chung quanh ông. Họ đã mời ông đọc và chú giải “Tin Mừng”, Phúc Âm mà Đức Giêsu đã loan báo.
Một cuộc đối thoại hình thành giữa hai bên và hơn thế nữa, đây là một thời điểm thuận lợi để cho sự thống nhất nền tảng của nhân loại được khẳng định và cảm nhận bằng lời cũng như bằng sự im lặng.
Vấn đề không phải là xóa bỏ hoặc che dấu những điểm khác nhau nhưng là nêu rõ chúng bởi lẽ xuyên qua các điểm dị biệt, những điểm đồng quy mới kể cả bổ túc cho nhau sẽ được phác họa.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã dẫn một tục ngữ Tây Tạng : “Trâu vẫn phải là trâu và cừu vẫn phải là cừu”. Nhưng phải chăng là điên rồ khi muốn phong phú hóa sự đa dạng, tìm kiếm cái đơn nhất giữa sự đa tạp, phác thảo một “kỷ nguyên của Thánh Thần” bên ngoài mảnh đất chung của các giáo phái hay của thời thượng cầu kỳ, hoặc khi cùng nhau vạch ra những con đường cổ xưa của cuộc hành trình nội tâm và không vì thế mà từ bỏ thế giới hiện đại trong hiện trạng ? Đã hẳn, đó không phải là sự điên rồ. Nhưng phép lạ của lòng đơn sơ, chân thật đã chiến thắng mọi trở ngại cho dù sự nể nang của người này hay sự ngại ngùng của người khác bắt đầu biểu lộ. Cuốn sách này là sản phẩm của điều đó. Nó chứng tỏ với chúng ta sự tồn tại của một đối cực với lục điạ thống nhất của những người mới tòng giáo ; một đất nước ở đó tính phổ quát từ chối sự đồng phục hóa và những tính cách dù bị đe dọa nặng nề, cũng khước từ sử dụng bạo lực như phương tiện để sống còn.
Trước tiên, lời này gửi đến cho các Kitô hữu và các Phật tử. Tinh thần của cuộc gặp gỡ tại Assise năm 1986 đã đem lại một sắc thái và đấy là phương pháp được áp dụng.
Nói rõ hơn : sau hai mươi thế kỷ thiếu thông tin, chúng ta hãy nhớ lại các sai lầm và nghịch nghĩa mà chúng ta nghĩ về Phật giáo với lòng tự phụ từ Rubrouck cho tới các thời kỳ gần đây nhất. Người ta sẽ ngừng mọi phán đoán tiên nghiệm, mọi ý tưởng đã nhận lãnh để thực hiện việc đọc chung một bản văn căn bản : Kinh Thánh. Người ta sẽ không dừng lại ở sử tính của các sứ điệp để gắn bó hoàn toàn với sứ điệp. Không phải là vô ích khi ta đi tìm lại trong lịch sử những dấu vết và âm hưởng các lời giảng dạy của Đức Như Lai (Tathagata) vang dội đến vùng đất Palestine nơi Đức Giêsu sẽ giáng thế, và rộng lớn hơn trong vùng Điạ Trung Hải La-Hy. Các nhà nghiên cứu trẻ tuổi về lịch sử và triết học đang làm việc ấy. Ở đây, có một sự cấp bách khác. Hơi giống câu chuyện mà Đức Phật đã sử dụng, nói về một người đàn ông bị một mũi tên bắn trúng và ngã lăn dưới chân chúng ta. Có phải chúng ta sẽ đi tìm lai lịch của người bắn ? Lai lịch của người buôn bán cung ? Loại gỗ mà mũi tên được làm ra ? Không. Chúng ta cần phải lập tức tìm ra loại thuốc để chữa lành và cứu sống người bị nạn.
Vậy là chúng ta có thể nói rằng Ki tô hữu và Phật tử đã gặp nhau...
"Tại sao chúng ta cần có hòa bình ? Tại sao chúng ta không đánh nhau và làm cho chiến tranh thành một thứ nghệ thuật như chúng ta đã làm từ bao lâu nay ? Rõ ràng rằng câu trả lời cho câu hỏi ấy có thể được trình bày bằng các từ ngữ. Người ta tìm thấy câu trả lời ấy trong thiền định. Các Phật tử, các Kitô hữu và những người thuộc mọi tôn giáo đều nhất trí nói rằng nguồn gốc của khát vọng hòa bình được diễn tả khá đúng bằng tình yêu hay thiện tâm. Nếu lòng người cơ bản là tốt – có gì để hy vọng đâu nếu chúng ta nghĩ ngược lại – chính bởi vì nó có thể yêu thương.
Cuốn sách này là sự biểu hiện của tình yêu thương ấy, một tình yêu thương không do cảm tính và lòng ích kỷ. Cuộc đối thoại giữa Kitô giáo và Phật giáo có thể dùng làm ví dụ để chỉ ra bằng cách nào nhân loại có thể yêu thương nhau bởi vì họ khác nhau chứ không phải bất chấp những sự khác nhau. Mục tiêu ấy sẽ được làm cho phong phú và vững chắc trong thế kỷ sắp đến dọc theo các cuộc gặp gỡ của tâm và trí – theo hình ảnh của cuộc gặp gỡ của tâm và trí đã được thực hiện khi Đức Đạt Lai Lạt Ma mỉm cười chấp nhận đọc Phúc Âm với sự tôn kính sâu xa, trước một nhóm Kitô hữu sống chiêm niệm." (Cha Laurence Freeman, O.S.B)