“Đêm ấy vào một mùa đông. Gió lạnh mưa rơi.
Từng cơn mưa nối tiếp nhau trút nước tưởng không bao giờ dứt.
Càng ảm đạm hơn nữa, trên đỉnh “Phi Lai Sơn Trang” gió rít từng hồi, những ngọn cây cao vun vút rung đều từng loạt trong màn đêm, như giận hờn, như căm tức, như đang thóa mạ nhau vậy.
Mọi vật đắm chìm trong khung cảnh điên cuồng.
Ngoài những vệt chớp ngang trời, chốc chốc lại xé rách tấm màng đen ướt đẫm ấy thì dưới chân núi Phi Lai lại còn có mấy đốm lửa lập lòe.
Những đốm lửa này là do những ánh đèn phát ra từ một ngôi nhà đứng thu mình dưới chân núi.
Ánh đèn xuyên qua khe cửa, lay động từng cơn, lúc mờ lúc tỏ.
Ánh đèn thần bí đó chưa làm cho chúng ta chú ý bằng những tiếng hét lanh lảnh từ trong ngôi nhà vắng kia vang ra :
- Lồ ha... Cơ... toàn... Ồ!... Cửu vi... Bão bùng. Cái gì đã xảy ra trong ngôi nhà hoang vắng kia?
Một cuộc thảm sát?
Không!
Trong căn nhà đó có một thiếu niên, mình mặc quần áo chẽn, tay cầm đoản kiếm đang múa tung tăng, vừa hét vừa đâm vào ba cái hình nộm bằng da thú để dựng đứng trước mắt nó.
Thiếu niên chỉ trạc mười ba, mười bốn tuổi, nhưng mặt vuông hàm én, mày rậm, môi son, trông rất uy nghi tuấn tú.
Đặc biệt, đôi mắt nó sáng ngời, tỏ ra một đứa bé thông minh hiếm có.
Mặc dầu trời mưa gió lạnh, nhưng quần áo thiếu niên ướt đẫm mồ hôi, chứng tỏ chàng ta đã đâm chém vào ba cái hình nhân kia không phải ít.
Tuy nhiên, chàng ta chưa lấy thế làm vừa lòng, đôi mắt đăm đăm chiếu thẳng vào ba hình nhân như đang gườm ba địch thù, cây đoản kiếm của chàng múa phăng phăng, tỏa ra một vùng hào quang sáng rực. Cứ mỗi bước chàng lại hét lên một huyệt đạo, rồi mũi kiếm đâm thẳng vào huyệt đạo ấy không trật một ly.
Tiếng “sẹt! sẹt!” hòa lẫn với tiếng hét của thiên nhiên không ngớt. Ánh kiếm dọc ngang như những luồng điện chớp luôn luôn vạch trên mình ba hình nhân ấy.
Bên ngoài, mưa vẫn rơi, gió vẫn rít, sấm chớp không ngừng. Thế mà thiếu niên cứ mải mê luyện công như không hề để ý đến.
Bỗng sau lưng thiếu niên có một tiếng khua động!
Rồi một cánh cửa nhỏ bên trong căn phòng hé mở!
Tiếp đến lại có một lão nhân râu tóc rối bù, chân cụt mất một giò, mắt chỉ còn một con, tay cầm cây thiết trượng chống từng bước một tiến ra.
“Cộc! Cộc! Cộc!”.
Chỉ loang mắt, lão già một mắt một chân đã nép mình núp sau bóng tối trong xó vách.
Không thấy lão già đâu nữa, nhưng nếu ai nhìn vào xó vách thì sẽ thấy nơi đó phát ra một đốm lửa đỏ rực.
Đốm lửa đó là nhãn quang của lão quái. Ông ta chỉ còn một mắt, nhưng con mắt đó lại sáng đến khiếp người.
Cũng như lão chỉ còn một chân, nhưng nhờ cây thiết trượng, lão đi đứng còn lanh lẹ không thua những võ lâm cao thủ đương thời.
Luồng độc nhãn của lão quái chiếu thẳng lên mình thiếu niên không chớp.
Trong lúc đó, thiếu niên vẫn say sưa trong việc luyện kiếm, không hề để ý đến.
Thân chàng quay cuồng quanh ba cái hình nhân như một chiếc bánh xe quay quanh một cái trục.
Chàng rít lên :
- Tạn Huyết... Kiên Cảnh... Ngọc Chấn... Trung...
Mũi kiếm chàng đang điểm vào các huyệt đạo ấy thì bỗng nhiên có tiếng hét vang lên:
- Ngừng tay!
Tiếng hét làm chấn động cả căn phòng.
Tiếp đó, tiếng đầu thiết trượng nện xuống đất:
“Bộp!”.
Ánh nến rung rinh như bị một cơn gió động, tức thì ông lão một chân một mắt đã xuất hiện như một hình tượng, đứng trước mặt ba hình nhân, nhìn chòng chọc vào mặt thiếu niên, cất giọng nghiêm khắc hỏi:
- Thiên Hiệp! Những đường kiếm vừa rồi kẻ nào đã dạy cho ngươi đấy? Hãy nói mau!
Giọng nói của lão nhân the thé như tiếng xé giẻ, làm cho căn phòng lạnh lùng kia thêm khủng khiếp.
Thiếu niên vừa được lão nhân gọi là Thiên Hiệp bất giác bật mình nhảy lùi lại hai bước, ôm đoản kiếm trước ngực, nhìn lão nhân với vẻ sợ sệt.
Chàng nói:
- Thân phụ chưa ngủ sao?
Giọng nói của thiếu niên có vẻ thiết tha thân mật, nhưng nét mặt của lão quái lại không có chút gì trìu mến, luồng độc nhãn của lão lại sáng rực thêm, chiếc thiết trượng nên trên mặt đất hai tiếng “bộp! bộp!” như cay cú giận dữ.
Lão lướt mình tới hỏi bằng giọng gay gắt:
- Ta hỏi ngươi đường kiếm vừa rồi do ai dạy, tại sao ngươi không trả lời mà hỏi chuyện khác…” (Trích).